Thứ Bảy, 9 tháng 12, 2017

[3.62] Giấy khen của cán bộ C23/d2 Đơn vị J555 năm 1968 và 50 năm quay lại với chủ nhân

20171209

Trong số 13 Giấy khen của cán bộ chiến sỹ C23 đặc công Phân khu 4 (Phía Mỹ chú thích), do quân đội Úc thu giữ cuối năm 1968, có 1 Giấy khen mang tên bác Phạm Đức Để, tiểu đội trưởng thuộc C23.

Thông tin từ các CCB đặc công thiết giáp thuộc J16 cho biết: Đơn vị C23 là một đại đội của liên đôi 2 (tiểu đoàn 2) đặc công cơ giới thuộc J16 (Ban Cơ giới Miền), toàn lính đặc công và thiết giáp (C23 là đại đội thiết giáp từ đoàn 202 binh chủng thiết giáp vào), thời điểm bấy giờ hoạt động tỉnh Phước Tuy (nay là Bà rịa - Vũng Tàu) thuộc phân khu Đông Nam. Tiểu đoàn này gồm có C4, C5, C6 và C23. Các đơn vị này tham gia Tổng tấn công Tết Mậu thân ở hướng phân khu đông nam (gồm các tỉnh Biên Hòa, Phước Tuy (Bà Rịa Vũng Tàu) và Bình Tuy). 
Do liên đội 2 hoạt động sát ven đô và xa Miền nên Miền thành lập cơ quan tiền phương với mật danh T7 để chỉ huy. Bác Trần Quang Bôn (người ký giấy khen) nguyên là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 711 thiêt giáp dẫn quân vào nam, lúc này là Tham mưu phó cơ quan tiền phương T7 của J16.
Các giấy khen bác Bôn ký 27/2/68 chứng tỏ ký sau đợt 1 tết Mậu Thân 68, có thể thời điểm ký các đ/c này vẫn còn vì đây là khen thành tích năm 1967.

Một chi tiết thú vị nữa là bác Phạm Đức Để, một trong 13 người được tặng Giấy khen, năm nay đã 75 tuổi, bất ngờ khi nhận được bản in ảnh chụp Giấy khen, do 1 CCB chuyển đến, lần đầu tiên bác nhìn thấy sau 50 năm kể từ ngày ký.





Link liên quan: 
[3.61] Mười ba Giấy khen cấp cho cán bộ chiến sỹ C23 - Tiểu đoàn 5 - Phân khu 4, năm 1968

Thứ Tư, 6 tháng 12, 2017

[3.61] Mười ba Giấy khen cấp cho cán bộ chiến sỹ C23 - Tiểu đoàn 5 - Phân khu 4, năm 1968

2017120636071 - Kỷ vật kháng chiến


Mười ba giấy khen, ký các ngày 27/2/1968 và 26/1/1968 do đ/c Trần Quang Bốn là thủ trưởng đơn vị J555 (Phía Mỹ chú thích là Tiểu đoàn 5 đặc công – Phân khu 4/ Quân khu 7), cấp cho các cán bộ chiến sỹ đơn vị C23 về thành tích đạt trong năm 1967.

Các giấy khen này do quân Úc thu giữ cuối năm 1968 tại tỉnh Bà Rịa - Phước Tuy.

Tên tuổi các cán bộ, chiến sỹ và quê quán như sau:

1. Đ/c Phạm Hữu Hạnh, Trung đội phó – quê quán Hưng Giang – Ninh Thái – Hải Dương.
2. Đ/c Trần Văn Tuất, Tiểu đội trưởng, quê quán Thống NHê – Bình Giang – Hải Dương
3. Đ/c Lê Xuân Hán, tiểu đội trưởng, quê quán Thái Học – Bình Giang – Hải Dương
4. Đ/c Nguyễn Đức Đua, tiểu đội phó, quê quán Đông Hà – Đông Quan – Thái Bình
5. Đ/c Trần Bình An, tiểu đội phó, quê quán Hải Thượng – Tĩnh Gia – Thanh Hóa

6. Đ/c Vũ Đức Lâu, tiểu đội phó, quê quán Liên Hồng – Gia Lộc – Hải Dương
7. Đ/c Nguyễn Văn Vấn, chiến sỹ, quê quán Nam Đồng – Nam Sách – Hải Dương
8. Đ/c Nguyễn Đình Mới , chiến sỹ, quê quán Thái Tân – Thái Ninh – Thái Bình
9. Đ/c Nguyễn Văn Bái, Đại đội trưởng, quê quán Chiến THắng – Hiệp Hòa – Hà Bắc
10. Đ/c Mai Thanh Bình, Đại đội phó, quê quán Hồng Vân – Thường Tín – Hà Đông

11. Đ/c Vũ Đình Ty, Trung đội phó, quê quán Long Xuyên – Bình Giang – Hải Dương
12. Đ/c Phùng Văn Chá, tiểu đội trưởng, quê quán Cộng Hòa – Tam Dương – Vĩnh Phúc

13. Đ/c Phạm Đức Đễ, tiểu đội trưởng, quê quán Đoàn Tùng – Thanh Miện – Hải Dương























Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2017

[3.60] Quyết định trao quân hàm Chuẩn úy và Chứng nhận khen thưởng cấp cho bác Dương Văn Tuyển, đơn vị C33/d4/Ban J16 đặc công cơ giới Miền

2017120333067

Các giấy tờ của bác Dương Văn Tuyển, Trung đội trưởng Trung đội thuộc C33/d4/ Ban J16 đặc công cơ giới Miền, do phía Mỹ thu được tháng 2/1969. Các giấy tờ gồm:

- Bản sao Quyết định trao quân hàm Chuẩn úy, do Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị - Thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu ký ngày 7/1/1967, cấp cho bác Dương Văn Tuyển, cán bộ Trường sỹ quan Lục quân.

- Chứng nhận khen thưởng, của đơn vị Đội 16 Đoàn 129 (Ban J16 đặc công cơ giới Miền), đề ngày 2/9/1968, do thủ trưởng Phan Tấn Miêng ký, cấp cho bác Dương Văn Tuyển, Trung đội trưởng thuộc C33/d4, về thành tích trong trận đánh Dầu Tiếng đêm 4/7/1968.

Ảnh chụp Quyết định trao quân hàm và Giấy chứng nhận khen thưởng:


Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2017

[2.38] Vài nét sơ lược về Đoàn 340 hậu cần Miền trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước

20171125


Đoàn hậu cần 340 là đơn vị hoạt động trên đất Campuchia trong Kháng chiến chống Mỹ cứu nước

Ngày 30/12/1970, Đoàn Hậu cần 340 hình thành trên cơ sở sát nhập hai cánh hậu cần C300 và C400.


Là một đoàn hậu cần khu vực, tuyến sau của Cục hậu cần Miền hoạt động trên đất Campuchia. Đoàn vừa làm nhiệm vụ hậu cần chiến lược vừa làm nhiệm vụ hậu cần chiến dịch và chiến thuật. 

Đoàn trực tiếp bảo đảm hậu cần cho căn cứ của Miền nối liền với hậu cần các quân khu địa phương C10, C20 và 2 đoàn hậu cần 500 và 700.



Địa bàn hoạt động cua Đoàn 340 là dọc sông Mekong từ Kratie về tới Bưng Dồn, nằm ở bên kia sông Mekong tiếp giáp với Đoàn 500, lên đến Đoàn 770 ở Stung Treng.

Sau khi đoàn hậu cần 770 rút sang Mondokiri, đầu cầu tiếp nhận được chuyển cho Đoàn hậu cần 340. Như vậy địa bàn hoạt động của Đoàn hậu cần 340 dọc theo sông Mekong từ StungTreng xuống tới cây số 0 biên giới Lộc Ninh sang lộ 7, sang lộ 22 lên tới Sa Mát qua Kong Pom Cham.


Lực lượng của Đoàn 340 khá lớn, bao gồm: 


Bốn cánh quân nhu (Cánh 1 ở Kratie, cánh 2 ở Tà Bao, cánh 3 ở Xuông Chúp, cánh 4 ở nam sông Tê trên đường 13 về đến Snoul sau chuyển về Mimot). 
- Ba tiểu đoàn vận tải (1 tiểu đoàn vận chuyển đường sông, 1 tiểu đoàn ô tô tăng cường, 1 tiểu đoàn xe thồ). 
- Năm liên trạm đường dây nối liền từ Stungtreng với đầu cầu tuyến 559. Đường dây này xuống đến Bắc Kratie thì chia làm 2 ngả, 1 ngả về Lộc Ninh, 1 ngả về Sa Mát (Các liên trạm gồm 5, 6, 7, 11 và 12), bốn bệnh viện lớn là K21, K53, K54, K50), một tiểu đoàn công binh và 1 số đơn vị khác.

Khi thành lập, quân số của Đoàn 340 có 1717 người, đến năm 1971 tăng lên 3036 người. Năm 1972 quân số tăng đến 4189 người (20 tiểu đoàn).

Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2017

[4.23] Danh sách có tên và quê quán của 121 cán bộ chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 724 pháo binh DKB, Bộ Tư lệnh Miền, do phía Mỹ thu giữ

2017112453086

Danh sách có tên và quê quán của 121 cán bộ chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 724 pháo binh DKB, Bô Tư lệnh Miền (đã dịch qua tiếng Anh), do phía Mỹ thu giữ.

Tiểu đoàn 2 có 125 cán bộ chiến sỹ, được chia thành 7 Tiểu đội.

Trung đoàn 724 nguyên là Trung đoàn 84A pháo binh mang vác DKB, xuất phát vào Nam khoảng giữa năm 1966.

Theo danh sách này thì quê quán theo từng tỉnh có số lượng người như sau:

- Hà Tây có số lượng người đông nhất là 65 người,
- Hà Bắc có 13 người,
- Hải Dương có 6 người,
- Nam Hà có 9 người,
- Phú Thọ có 2 người,
- Vĩnh Phúc có 5 người,
- Hà Nội có 4 người,
- Hòa Bình có 1 người,
- Hưng Yên có 7 người,
- Thanh Hóa có 2 người,
- Bắc Cạn có 1 người,
- Ninh Bình có 1 người,
- Nghệ An có 1 người,
- Hải Phòng có 1 người,
- Thái Nguyên có 1 người,
- Quảng Ngãi có 1 người.


Ảnh chụp bản danh sách (Đã dịch qua tiếng Anh):


















Thứ Năm, 23 tháng 11, 2017

[3.59] Bản tin Truyền thống - tờ báo của Trung đoàn 272/ TRung đoàn 2 Đồng Xoài - Sư đoàn 9 Quân đội nhân dân Việt Nam, do phía Mỹ thu được dịp Tết Mậu thân 1968 tại khu vực Thủ Đức

2017112352084

Bản tin Truyền thống - tờ báo của Trung đoàn 272/ TRung đoàn 2 Đồng Xoài - Sư đoàn 9 Quân đội nhân dân Việt Nam, do phía Mỹ thu được dịp Tết Mậu thân 1968 tại khu vực Thủ Đức. 

Số báo này in ngày 7/12/1967, gồm có 4 trang, trong đó 2 trang cuối hơi mờ.

Dưới đây là ảnh chụp 2 trang đầu của tờ báo:




Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

[7.16] Tết Mậu Thân 1968 ở Cần Thơ: Diễn biến sơ lược trận tấn công vào sân bay Cần Thơ rạng sáng 31/1/1968

20171119

Diễn biến sơ lược trận tấn công vào sân bay Cần Thơ dịp Tết Mậu thân 1968 như sau:

0. Tình hình Cần Thơ trước khi diễn ra trận tấn công: Ngày 30/1/1968 tin tức tình báo cho thấy dấu hiệu của các tiểu đoàn bộ đội địa phương: Tiểu đoàn 303, 309 và tiểu đoàn Tây Đô ở lân cận thành phố Cần Thơ và sân bay Cần Thơ. Mục tiêu của các tiểu đoàn này là thành phố Cần Thơ và sân bay Cần Thơ.

1. Sáng ngày 30/1/1968, Bộ Tư lệnh MACV đã ra lệnh báo động vàng tới các lực lượng đóng tại sân bay Cần Thơ. Chỉ huy sân bay đã ra lệnh trang bị vũ khí tới tất cả các vị trí và lực lượng trong sân bay, trước khi trời tối. Lực lượng dự bị được lệnh sẵn sàng chờ đợi mệnh lệnh.

2. 1h sáng 31/1/1968 tiểu đoàn công binh canh gác sân bay tiến hành đổi ca gác trên khu vực trách nhiệm ở phía tây bắc sân bay, gồm có 3 tháp canh và 1 lô cốt.

3. Trước lúc 3h sáng, đoàn xấp xỉ 130 người của Tiểu đoàn 303 bộ đội Việt Nam bí mật tiến quân qua khu rừng ở phía trước khu đỗ trực thăng. Họ bí mật cắt hàng rào thép gai và di chuyển vào bằng hệ thống cống thoát nước đến mép con đường giữa lô cốt số 4 và tháp canh số 4. Lúc này chỉ huy đơn vị trực thăng đang kiểm tra khu vực của đơn vị công binh, từ E1 đến E5. Vào khoảng 3h sáng, viên chỉ huy bước trên con đường giữa vị trí E3 và E4 trong khi lực lượng bộ đội Việt Nam bắt đầu tấn công. Hai quả lựu đạn ném đến đã đốn gục viên chỉ huy và làm bị thương một số lính công binh ở vị trí E2. Viên chỉ huy bật dậy và chạy về vị trí E3. Ông ta thấy các lính công binh đều bị thương và chạy về tháp canh số 5 để gọi điện thoại trợ giúp. Cùng lúc toàn bộ binh lính ở vị trí E3, E4 và lực lượng an ninh trong lô cốt số 4, tháp canh số 5 bắt đầu bắn trả về phía bộ đội Việt Nam. Khẩu độ súng cối ở phía Đông sân bay bắt đầu bắn pháo sáng chiếu sáng khu vực.

4. Khu vực phía Đông của vị trí đơn vị trực thăng bị tấn công dữ dội. Hai lính công binh ở vị trí E4 đã bị thương. Lính ở vị trí E5 đã được báo động từ đầu, bị bộ đội Việt Nam tấn công liên tục. Có vẻ mục tiêu của phía bộ đội Việt Nam là khu kho xăng dầu.

5. Cho đến khoảng 3h10 sáng 31/1/1968, có khoảng 15 bộ đội Việt Nam ở trong hàng rào. Nhóm này tiến sâu vào các đụn cát, còn nhóm khác thì ẩn nấp quanh tháp canh số 4 để cố gắng loại bỏ khẩu súng máy trong tháp canh số 4. Thêm nhiều bộ đội Việt Nam ở 2 bên của con đường bao quanh sân bay, cách phía tây lô cốt số 4 khoảng 300m. Các lực lượng quân Mỹ và đồng minh tập trung hỏa lực bắn vào khu vực có bộ đội Việt Nam dọc theo khu vực phía Tây sân bay.

6. Phản ứng với các đợt tấn công của bộ đội Việt Nam rất khẩn trương. Xe jeep có trang bị súng phóng lựu tiến đến con đường của Pháp cũ từ khu máy bay, sau đó rẽ phải vào con đường bao ngoài, và gặp viên chỉ huy đơn vị trực thăng. Viên chỉ huy cùng với người lái xe đã dung súng phóng lựu bắn về phía bộ đội Việt Nam, sau đó chỉ điểm mục tiêu để trực thăng vũ trang tấn công bộ đội Việt Nam. Đồng thời bằng ném bom và hỏa lực mặt đất đã chặn đứng nỗ lực của lực lượng bộ đột Việt nam nhằm mở rộng mũi tấn công khu phía Tây sân bay.

7. Lúc này lực lượng dự bị đã tiến đến gần khu vực kho xăng dầu, tiến vào các lô cốt gần khu kho. Hỏa lực của bộ đội Việt Nam bắn đến khu vực này từ nhóm các ngôi nhà lá ở phía Bắc tháp canh số 4. Lực lượng dự bị đi trên các đụn cát, bất ngờ một số bộ đội Việt Nam nhô đầu lên lên từ phía bên kia, lực lượng Mỹ đã ném lựu đạn đáp trả. Sau đó kiểm tra phát hiện có 3 bộ đội Việt Nam chết. Lúc này lực lượng bộ đội Việt Nam bắt đầu rút lui.

8. Chiến sự tiếp diễn không giảm xuống trong khoảng 1 giờ. Có thể thấy bộ đội Việt Nam băng qua con đường bao sân bay, trong hệ thống rãnh, trong khu rừng. Sau đó họ bắn rocket vào khu vực kho xăng dầu. Cho đến khoảng 4h sáng thì bộ đội Việt Nam bắt đầu rút ra theo từng nhóm nhỏ.

9. Chiến sự diễn ra cho đến rạng sáng.Lực lượng công binh VNCH tiến đến hỗ trợ cho quân Mỹ, chốt chặn lên phía Bắc. Doanh trại của lực lượng này năm fở phía Đông, được phòng thủ chắc chắn.

10. Tổn thất phía Mỹ có 5 chết, 8 bị thương. PHía bộ đội Việt nam thiệt hại như sau:  

- Phía Mỹ lục soát xác định có 64 thi thể bộ đội Việt Nam quanh hàng rào sân bay, trong đó 27 thi thể bộ đội Việt Nam được phát hiện ở trong của hàng rào sân bay. 30 bộ đội bị thương. Phát hiện dấu hiệu có nhiều bộ đội bị thương.


- Thu giữ tại trận địa các loại gồm: 3 súng AK50?, 7 súng AK47, 2 súng CKC, 1 súng M79, 1 súng M1, 1 súng B41, 85 thủ pháo loại 1kg, 1 súng RPD, 20 lựu đạn, 21 đạn B40, 12 đạn cối 81mm và khoảng 2500 viên đạn.

[Còn tiếp]

[5.64] Địa danh (11): Bản Nhik, Bản Ytu trên đất Lào - Hoạt động của Trung đoàn 141 Sư đoàn 2 QK5 những ngày 9-10-11/6/1971

20171119 Địa danh


Sau chiến dịch phản công đường 9 nam Lào, tháng 2 và 3/1971, Sư đoàn 2 QK5 được lệnh cử Trung đoàn 141 chiến đấu ở khu vực Pak Xoòng  trục đường 23 nam Lào. Trong những ngày 9-10-11/6/1971 ghi nhận về hoạt động của Trung đoàn 141 Sư đoàn 2 QK5 dọc theo đường 23 đoạn nối từ Pak Xoòng đến Pak Xế, trong khu vực bản Nhik và bản Ytu như sau:


Mất Pắk Xoòng, thị trấn Pắk Xế bị uy hiếp mạnh. Lực lượng tại chỗ của địch không đủ sức chiếm lại Pak Xoòng. Dưới sự thúc ép của Nhà Trắng và Lầu Năm góc, phái cực hữu trong giới cầm quyền Thái Lan đã đưa quân sang đánh thuê cho đế quốc Mỹ. Đầu tháng 6/1971, ba tiểu đoàn quân Thái Lan và mt tiểu đoàn hỗn hợp Lào – Thái đến Pak Xế. Vừa đến nơi, toàn bộ lực lượng địch di chuyển luôn đến Lào Ngâm. Tại đây chúng hợp quân với hai tiểu đoàn ngụy Lào từ Pàk Xoong chạy về. Tiếp theo, quân địch lại nhích đội hình xuống Ytu, Bản Nhik ở phía tây Pắk Xoòng 20km. Ý định của chúng là tổ chức một cụm cứ điểm mạnh để chặn lực lượng ta tiến về hướng Pắk Xế, đồng thi chuẩn bị phản công tái chiếm Pắk Xoòng.

Nhận rõ âm mưu của địch, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn đề nghị Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận cho Sư đoàn đánh chiếm Y Tu, Bản Nhik, phá vỡ bàn đạp phản công của địch, đẩy chúng lùi sâu về phía tây, bảo đảm vững chắc việc giữ vững vùng giải phóng Pắk Xoòng.

Y Tu, Bản Nhik nằm giữa hai con suối lớn là Huội Chăm Pi và Huội Băng Liêng. Cả hai suối đều có lòng rộng từ 20 đến 30 mét, có chỗ rộng tới 50 mét. Nước suối chảy xiết không thể lội qua được, bờ suối lại là những vách đá thẳng đứng với chiều cao từ 10 đến 15 mét, có chỗ 30 mét, không thể bám để trèo lên. Đó là vật cản thiên nhiên rất lợi hại, gây cho ta nhiều khó khăn trong qua trình phát triển tiến công.

Tuy nhiên, khó khăn về địa hình và thời tiết cũng không cản trở được kế hoạch tiến công của ta, các đơn vị đều khẩn trương chuẩn bị.



Tháng 6, cao nguyên Bô-lô-ven đang là mùa mưa lớn. Sau hai ngày hành quân, Đại đội 9 - Tiểu đoàn 90 đã đến Huội Chăm Pi. Nước suối dâng cao, bộ đội làm bao nhiêu cầu đều bị nước cuốn trôi tất cả. Sáng ngày 10 tháng 6, đơn vị mới tìm được đoạn suối hẹp, có cây gỗ vít ngang. Đại đội trưởng liền cho làm dây vịn, đưa đội hình vào chiếm lĩnh đúng thời gian.

Hành quân đến Huội Băng Liêng, Tiểu đoàn 90 liền tổ chức vượt suối. Sau một ngày tìm mọi cách khắc phục, đơn vị vẫn không qua được, Trung đoàn trưởng Trần Quang Lập, cùng đi với đơn vị điện xin Sư đoàn lùi thời gian nổ súng lại một ngày.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn quyết định sử dụng số vệ binh, trinh sát, thông tin trong bộ phận đi chuẩn bị chiến trường tổ chức thành một mũi đột kích, thay cho mũi tiến công của Tiểu đoàn 90 và lệnh cho Trung đoàn trưởng Trung đoàn Ba Gia phải tố chức ngay một đại đội gọn, nhẹ cơ động nhanh, vượt lên trước cho kịp giờ nổ súng.

Sau nửa ngày lừng sục, tiểu đoàn đã tìm và đốn ngã một  cây  to  ba  người ôm  vít  ngang  lòng suối. 16 giờ  ngày 10  tháng 6, bộ đội bắt đầu vượt cầu.

Trong lúc các mũi tiến công của ta đang tổ chức chiếm lĩnh trận địa thì 6 giờ ngày 9/6/1971, quân địch từ Ytu đánh xuống Pak Cụt hòng tiến thêm 1 bước nữa trong kế hoạch phản công tái chiếm Pak Xoòng.

ĐỊch nống ra, đây là điều kiện để ta nghi binh thu hút, kìm giữ lực lượng chúng ở bên ngoài, tạo thêm thuận lợi cho trận tiến công vào cứ điểm.

Một trung đội của Tiểu đoàn 1 quân tình nguyện tổ chức chốt chặn quân địch ở trước Pak Cụt. Sau một ngày chiến đấu ngoan cường, trung đội đã đánh bật tất cả các đợt tiến công của địch, nhưng đơn vị cũng thương vong nặng. Toàn trung đội chỉ còn 4 đồng chí. Ngày 10, địch lại tiến công lên chốt, thêm 1 chiến sỹ nữa bị thương, ba tay súng dũng cảm của ta vẫn kiên cường trụ bám, đánh bật lien tiếp 2 đợt xung phong của địch. Hàng chục xác địch nằm chồng lên nhau trước mép chiến hào.

Lợi dụng lúc địch đang chăm chú theo dõi diễn biến của trận đánh ở vòng ngoài, các mũi tiến công của ta bí mật và an toàn tiến sát mục tiêu.

16h ngày 10/6/1971, trận địa cối 120mm ở mũi tiến công hướng Tây bắc bắt đầu trút đạn vào Bản Nhik. Những quả đạn đầu tiên rơi đúng ngay sở chỉ huy. Tên đại tá Bu Thoong và một số sỹ quan tùy tùng chết gục tại hầm.

THời tiết đã gây thêm khó khăn cho trận đánh. Trời mưa, trận địa sũng nước. Để chống lún, các chiến sỹ súng cối phải dung cọc gỗ đường kính 10 đến 15cm dài từ 1.2 đến 1.5 m đóng dày sít, bên trên chồng 2 lớp bao cát rồi mới bố trí súng lên trên. Tuy vậy chỉ bắn được 5-7 viên, súng đã lún sâu đến gần 1m. Thế là phải vác súng lên đưa đến trận địa dự bị. Trận địa di chuyển liên tục. Bom và rocket địch nổ quanh mình. Từng viên đạn cối của ta vẫn rơi chính xác vào cứ điểm giặc.

18 giờ, cối vừa chuyển làn, mũi tiến công vào hướng Tây bắc bản Nhik do đồng chí Trung quyền Trưởng ban tác chiến Sư đoàn và đồng chí Lợi, Chính trị viên phó Tiểu đoàn chỉ huy, nhanh chóng xung phong tác chiến, làm chủ cả khu vực và phát triển về phía Đông.

Cùng lúc, tiểu đoàn công binh và đại đội thiết giáp, lợi dụng sương mù, bất ngờ và mãnh liệt đột kích thẳng vào Ytu. Quân ta nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy và bắn chết tên tiểu đoàn phó tiểu đoàn ngụy Lào BV 40. Đến 21 giờ, phần lớn quân địch ở Ytu đã bị tiêu diệt. Sau khi để lại 1 bộ phận làm nhiệm vụ tảo trừ, lực lượng ta bắt đầu phát triển sang Bản Nhik.

Do tiểu đoàn 90 đến chậm nên cuộc chiến đấu ở hướng tây nam gặp nhiều khó khăn. Bộ phận trinh sát của Trung đoàn Ba Gia cùng vệ binh, trinh sát, thông tin Sư đoàn do đại đội phó trinh sát Nguyễn Chuyển chỉ huy trang bị nhẹ nên klhông phát triển được.

24 giờ ngày 10/6, qua máy vô tuyến điện, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 90 Trương Hồng Anh bắt liên lạc với đại đội ở hướng Tây Bắc lệnh cho đơn vị đánh sang phối hợp với mũi tiến công ở hướng Tây Nam. Do phải vượt qua một con suối sâu và đánh theo đường vòng nên mãi đến 5 giờ ngày 11/6, đại đội 9 mới bắt lien lạc được với bộ phận trinh sát của Trung đoàn. Lúc này đội hình chính của tiểu đoàn cũng đến đủ. Trận tiến công dứt điểm bản Nhik đang được chuẩn bị khẩn trương.

Tiếng súng của ta tạm dừng, tưởng ta đã đã rút, bọn chỉ huy quân địch ở bản Nhik liền báo về Pak Xế: “Chỉ mất Ytu, Việt cộng không làm gì nổi bản Nhik”, và xin Pak Xế tăng viện cho 1 tiểu đoàn để lấy lại Y Tu.

7 giờ ngày 11/6, trong lúc đám quân sống sót của địch ở bản Nhik đang đi lại nhốn nháo thì từ các trận địa bố trí sẵn, tất cả các nòng súng cối 120, 80mm, DKZ75, 85mm của ta đồng loạt trút đạn lên các mục tiêu địch. Tiếp theo là tiếng súng B40, B41, đại liên, trung liên, rồi tiếng súng trường, lựu đạn nổ vang. Từ ba mặt, các mũi xung kích của Tiểu đoàn 90 xung phong áp đảo quân địch.

Tuy bị đánh bất ngờ nhưng dựa vào công sự địa hình có lợi, quân địch chống trả quyết liêt. Mũi tiến công chủ yếu của Tiểu đoàn 90 do Đại đội 11         đảm nhận đánh vào khu vực cố thủ của một đại đội Thái Lan. Lợi dụng nhà sàn của dân, chúng bố trí đại liên trên gác khống chế mặt Đường 23. Đại đội 11 buộc phải dừng lại ở phía nam đường. Trung đội trưởng Trần Văn Hiệu nhanh chóng cho hai tiểu đội vận động đánh vòng vào sau lưng địch. Để thu hút sự chú ý của chúng, Hiệu ôm súng lăn qua mặt đường. Đạn địch cày toé lửa quanh mình, vừa qua khỏi đường Hiệu đã nhanh chóng nép người vào mô đất và dùng M79 diệt ngay ổ đề kháng của địch. Cùng 1úc, Đại đội 9 từ Bắc đánh vào và một trung đội của Đại đội 10 từ phía tây ập tới. Chỉ trong chốc lát, cả đại đội lính đánh thuê Thái Lan, cùng một đại đội ngụy Lào từ Y Tu chạy qua và một đại đội của tiểu đoàn BV46 ngụy Lào bố trí trong khu vực này đã bị tiêu diệt.

Quân địch hoàn toàn tan rã. Tiếng súng truy kích của các chiến sĩ ta vang động khắp núi rừng. 11 giờ ngày 11 tháng 6, ta đã hoàn toàn làm chủ Bản Nhik. Máy bay địch lao tới ném bom, bắn phá, hòng hủy diệt trận địa. Trận địa phòng không của ta bắn rơi 3 chiếc T28 và một L19, bọn còn lại vội vã bỏ chạy.

Cụm bàn đạp Y Tu, Bản Nhik đã bị tiêu diệt. Âm mưu tái chiếm Pắk Xoòng của địch đã bị đập tan. Trong vòng 19 giờ tiến công liên tục, ta đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn ngụy Lào BV44 và một đại đội Thái Lan, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn ngụy Lào BV46, bắn rơi 4 máy bay, bắn cháy 12 xe quân sự, phá hủy 5 đại bác 105mm, thu trên 170 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh. Vùng giải phóng Hạ Lào được mở rộng thêm và củng cố vững chắc.

Bản đồ khu vực diễn ra chiến sự, quanh bản Nhik, bản Ytu




Bản đồ 3D trên nền ảnh vệ tinh google map, nhìn từ hướng bản Ytu về bản Nhik




Chủ Nhật, 12 tháng 11, 2017

[5.63] Địa danh (10): Viện 2 Quân khu 5, tháng 10/1965 (Nay thuộc tỉnh Gia Lai)

2017111241072 Địa danh Viện 2 QK5 - Cần kiểm chứng thêm

Sơ lược về Bệnh viện 2 của Quân khu 5 như sau:


Khi bảo đảm cho chiến dịch phía Bắc Công Tum (tháng 2 năm 1965), Bộ Tư lệnh mặt trận cho phép được rút tiểu đoàn quân y của sư đoàn 325A do bác sĩ Trịnh Văn Luận phụ trách chuyển thành viện I ở cánh Bắc. Khi mở chiến dịch Plây Me, bác sĩ Luận cùng một số nhân viên lại vào cánh Nam thành lập viện II kết hợp đội phẫu thuật của bác sĩ Truyền và đại đội quân y của trung đoàn 320. Thành phần của viện I, viện II đều thuộc quân y của sư đoàn 325A là sư đoàn vào Nam sớm nhất để lại Tây Nguyên trung đoàn 320 và 101, còn một trung đoàn xuống Khu 5.

Sơ bộ thông tin phía Mỹ nắm được, thì tháng 10/1965 có 1 bệnh viện của Quân khu 5 phục vụ chiến dịch Pleime. Bệnh viện có khoảng 70 cán bộ chiến sỹ, phục vụ cho khoảng 500 thương bệnh binh từ chiến dịch Pleime. Bệnh viện này nằm ở khu vực gần làng Xinh/ Plei Lao Tchin, phía tây Bắc núi Chư Pông, hiện thuộc huyện Chư Pông tỉnh Gia Lai. Như vậy có thể bệnh viện này chính là Bệnh viện 2 QK5 đã nêu ở trên.

Sau này Viện 2 cũng chính là 1 phần tiền thân của Bệnh viện 211 Mặt trận B3 Tây Nguyên, hay Bệnh viện 211 Quân đoàn 3 hiện nay.

Một số cán bộ của Viện là: Thương úy Kỳ là chỉ huy Viện, Bác sỹ Truyền và 1 bác sỹ khác không rõ tên, Nhân viên y tế gồm cán bộ tên Hưng và Luân/ Luận.

Bản đồ khu vực xác định bệnh viện gần làng Xinh:


Thứ Bảy, 11 tháng 11, 2017

[5.62] Sổ sách ghi chép của Liệt sỹ Đoàn Văn Nhiều, đơn vị Đội điều trị 121 thuộc Đoàn 82 Hậu cần Miền, quê xã Quỳnh Lương huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình, hy sinh 2/4/1969

2017111140070

Các giấy tờ, sổ sách của Liệt sỹ Đoàn Văn Nhiều, đơn vị Đội điều trị 121 thuộc Đoàn 82 Hậu cần Miền, quê xã Quỳnh Lương huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình, hy sinh 2/4/1969, do phía Mỹ thu giữ gồm:

1- Giấy chứng minh dùng trên đường chi viện vào Nam, cấp cho đ/c Đoàn Văn NHiều, đoàn 746 đi S9 Hải Yến.

2- Lời chú thích của Chính trị viên Đội điều trị 121 ĐT121 thuộc Đoàn 82 Hậu cần Miền tức Đội điều trị dã chiến hoạt động trong vùng chiến khu Dương Minh Châu Tây Ninh, trong đó có nói đ/c Nhiều quê ở xã Quỳnh Lương huyện Quỳnh Côi tỉnh Thái Bình, đã hy sinh lúc 16h15 ngày 2/4/1969, và có nhắc đến bút tích của đ/c Nhiều, là cuốn sổ ghi chép cá nhân.

3- Cuốn sổ ghi chép cá nhân của đ/c Nhiều, trong đó trang đầu ghi ngày 24/1/1968, đón cái Tết đầu tiên trong quân ngũ. Trong cuốn sổ có ghi thêm tên một số đồng đội cùng quê đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam, có số hiệu hòm thư:

Phùng Văn Cán HT 44154 BS công trường 40 C18, Dương Văn Song HT 44599 BX, Dương Văn Tình và Dương Văn Sơn HT 44580 BK.

Thông tin về LS Nhiều trong web Chinhsachquandoi.gov.vn như sau:

http://chinhsachquandoi.gov.vn/LietSi/95533

Họ và tên:Đoàn Văn Nhiều
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh:1938
Nguyên quán:Quỳnh Lương, Quỳnh Côi, Thái Bình
Trú quán:Quỳnh Lương, Quỳnh Côi, Thái Bình
Nhập ngũ:9/1965
Tái ngũ:
Đi B:
Đơn vị khi hi sinh:
Cấp bậc:A bậc phó
Chức vụ:
Ngày hi sinh:02/4/1969
Trường hợp hi sinh:Pháo bắn
Nơi hi sinh:Cứ ĐT 122

Ảnh chụp các giấy tờ, và 1 trang đầu cuốn sổ:






Thứ Năm, 9 tháng 11, 2017

[7.15] Sư đoàn 9 Quân đội nhân dân Việt Nam - Cuộc hành quân Chenla - Địa bàn chiến dịch QL6 nam Kampong Thom - ngày 26-27/10/1971

20171109

Theo Lịch sử Sư đoàn 9 thì hoạt động của Sư đoàn 9 trong giai đoạn tháng 10 năm 1971 trên chiến trường Campuchia như sau (http://ccbsu9.org/contents/index.php/l-ch-s-va-tu-li-u/l-ch-s-su-doan-9/574-ph-n-th-nh-t-chuong-hai):

Ngày 1 tháng 10 năm 1971, Quân uỷ và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch phản công trên đường số 6 nhằm đánh bại cuộc hành quân “Chen-la 2” của địch.
Lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn 9, các Trung đoàn bộ binh 205, 207, 201, 203, Tiểu đoàn 32, Tiểu đoàn pháo binh 22 của C40. Lực lượng Bạn có hai tiểu đoàn và một số đại đội bộ đội địa phương tỉnh, du kích các phum.
Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm có: đồng chí Đồng Văn Cống làm Tư lệnh, đồng chí Lê Văn Tưởng làm Chính uỷ, đồng chí Lê Ngọc Hiền làm Phó Tư lệnh.
Địa bàn chiến dịch chủ yếu ở khu vực đường số 6 từ Sa Kông Kom, Săng Túc, Kông Pông Thom. Đây là khu vực địa hình đồng bằng tương đối trống trải, ruộng nước xen kẽ rừng cao su, rừng già. Dân cư trong khu vực sống tập trung thành từng cụm, ở các phum xung quanh các thị trấn. Thời tiết lúc này đang cuối mùa mưa nên việc cơ động gặp nhiều khó khăn.
Đêm 27 tháng 10 năm 1971, Tư lệnh Sư đoàn Nguyễn Thới Bưng lệnh cho các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công các cứ điểm trên tuyến phòng thủ đường số 6 của địch. Trung đoàn 2, do Trung đoàn trưởng Di Thiện Tích và Chính ủy Võ Văn Nhâm chỉ huy tiêu diệt tiểu đoàn 377 quân ngụy Lon Non ở phum Đa, chia cắt đội hình hành quân của địch ở phía bắc (đoạn Ba Rài đến Rùm Luông) và vây ép lữ đoàn 46 địch. Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Phạm Kim và Chính ủy Lê Chư chỉ huy tiến công cứ điểm An Đông Pô, chia cắt đội hình hành quân của địch ở phía nam (đoạn Kreul đến Rùm Luông. Trung đoàn 1 do Trung đoàn trưởng Quách Mười và Chính ủy Trần Văn Thiệt chỉ huy vây ép lữ đoàn 61 ở Krianđét. Bị ta đánh mạnh, đồng loạt và bất ngờ, đội hình hành quân của địch bị cắt làm ba đoạn, nhiều đơn vị bị mất chỉ huy, đối phó lúng túng. Mỹ buộc phải huy động không quân (60 đến 70 lần chiếc/ngày) chi viện hoả lực hòng ngăn chặn đội hình tiến công của ta và lệnh cho ngụy quyền Lon Non phải đưa thêm lực lượng từ phía sau lên giải tỏa. Đại đội 1 Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 1) làm nhiệm vụ chốt chặn phía nam Rùm Luông; Đại đội 1 Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 2) chốt chặn phía bắc Rùm Luông. Giữa cánh đồng nước trống trải, công sự sơ sài, nhưng cả hai đơn vị kiên cường trụ bám dưới hoả lực bom pháo ác liệt, đánh lui hàng chục đợt phản kích của lữ đoàn 48, 25 và 20 thuộc lực lượng dự bị cơ động của quân ngụy Lon Non khi chúng lên giải toả. Từ đêm 27 tháng 10, Trung đoàn 1 sử dụng Tiểu đoàn 3 và hỏa lực thực hiện vây lấn, tấn, triệt, diệt, bao vây cô lập lữ đoàn 61 địch ở Kari an-đét, gây cho chúng nhiều thương vong. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, đến 8 giờ ngày 9 tháng 11 chúng mở đường tháo chạy về hướng Rùm Luông, bị Tiểu đoàn 1 và 2 vận động bao vây tiến công tiêu diệt gọn. Tiếp những ngày sau đó lữ đoàn 46  địch đóng ở Rùm Luông cũng bị Trung đoàn 2 và 3 tiến công đánh thiệt hại nặng, số còn lại bỏ chạy bị Trung đoàn 2 và 3 truy đánh, diệt nhiều tên, bắt gần 1.000 tên, thu toàn bộ xe pháo ở Rùm Luông. Sáng ngày 1 tháng 12, Trung đoàn 2 được tăng cường Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 1), từ vị trí bàn đạp, đồng loạt nổ súng đánh chiếm các vị trí tiền tiêu và thọc sâu diệt sở chỉ huy hành quân “Chen la-2”. 13 giờ ngày 1 tháng 12, ta giải phóng Bà Rài.     

Bản đồ khu vực Santuk, nam Kampong Thom và ghi nhận 1 số điểm có giao chiến ở phía Nam Kampong Thom, ngày 26 - 27/10/1971

[5.61] Sổ tử sỹ của Đại đội 1-2-3-4, thuộc 1 tiểu đoàn của Tỉnh đội Bình Định, do phía Mỹ thu năm 1968

2017110938067

Cuốn sổ có tiêu đề Sổ tử sỹ C1-C2-C3-C4, phía Mỹ chu thích là ghi chép danh sách 190 Liệt sỹ thuộc đơn vị của Tỉnh đội Bình Định (Các thông tin khác không rõ), hy sinh từ năm 1961. Các Liệt sỹ chủ yếu quê ở Bình Định, và hy sinh cũng ở Bình Định.

Ảnh chụp trang bìa và 1 trang trong cuốn sổ (Tình trạng chung của ảnh chụp cuốn sổ là hơi khó đọc 1 số trang).






Thứ Tư, 8 tháng 11, 2017

[5.60] Thông tin về Liệt sỹ Nguyễn Văn Tân quê ở xã Vũ Đoan huyện Kiến Thụy tp Hải Phòng và Liệt sỹ Đoàn Văn Phố, quê xã Bạch Đằng huyện Tiên Lãng tp Hải Phòng

2017110837065

1. Biên bản kiểm thảo tử vong Liệt sỹ Nguyễn Văn Tân, đơn vị C1/ d58 Đ72, nhập viện vào ngày 18/10/1967, mất do sốt rét ngày 8/11/1967. Liệt sỹ Tân quê ở xã Vũ Đoan [Ngũ Đoan - RX chỉnh sửa 11/11/2017] huyện Kiến Thụy tp Hải Phòng.

2. Liệt sỹ Đoàn Văn Phố, quê xã Bạch Đằng huyện Tiên Lãng tp Hải Phòng, đơn vị thuộc Đơn vị K72 (Bệnh viện K72) thuộc ĐOàn 81 hậu cần Miền. Liệt sỹ Phố nhập viện ngày 31/12/1967 và mất ngày 13/1/1968 do sốt rét. 

Các Biên bản này do bác sỹ Bệnh viện K72 thuộc Đoàn hậu cần 81 lập, lính Mỹ thu giữ.

Ảnh chụp phần đầu trang 1 của 2 Biên bản, có thông tin tên và quê quán 2 Liệt sỹ.





[3.58] Quyết định đề bạt, bằng chứng nhận y tá của bác NGô Văn Trọng, sinh 1948, quê ở Đông Xá - Đông Quan - Thái Bình, cán bộ của Bệnh viện K190 thuộc Đoàn 81 hậu cần MIền, năm 1968

2017110837064 Kỷ vật kháng chiến

Quyết định đề bạt, bằng chứng nhận y tá, Giấy chứng minh đi B (Dùng trên đường 559 Trường Sơn) của bác NGô Văn Trọng, sinh 1948, quê ở Đông Xá - Đông Quan - Thái Bình, cán bộ của Bệnh viện K190 thuộc Đoàn 81 hậu cần Miền, do lính Mỹ thu được năm 1968.

Ảnh chụp các giấy tờ:


Thứ Hai, 6 tháng 11, 2017

[5.59] Thông tin sơ lược về khu vực Bệnh viện quân y 88 của Quân khu Trị Thiên, năm 1970

2017110648018

Giữa năm 1970, một đơn vị phía Quân đội VNCH phát hiện ra khu vực Bệnh viện quân y mang số hiệu 88 của Quân khu Trị Thiên - Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Bệnh viện quân y 88 có khoảng 50 lán trại, và một khu nghĩa trang có khoảng 200 ngôi mộ.

Khu vực phát hiện Bệnh viện hiện nay nằm ở huyện Dakrong - tỉnh Quảng Trị (Có tọa độ khu vực phát hiện Bệnh viện).

Hy vọng rằng khu vực này đã được quy tập!

[Cập nhật 11/11/2017]
Theo thông tin Rongxanh hỏi, thì đội quy tập tỉnh Quảng Trị đã tìm kiếm và quy tập tại khu vực này.

[5.58] Địa danh (9): Phum Tha Mây, Bothapan, Cơ Tham, tỉnh Kandal - Campuchia; đơn vị S7 Đoàn 200 ngày 8/5/1973

20171106 - Địa danh

Có 1 Liệt sỹ thuộc đơn vị S7 Đoàn 200 hy sinh ngày 8/5/1973 do bị B52 đánh vào căn cứ, nơi hy sinh là phum Tha Mây, Bothapan, Cơ Tham, Cần Đan.

Rà soát các thông tin liên quan, Rongxanh nhận thấy địa danh sau trên bản đồ là phù hợp nhất:

Phum Tha mây = Phum Thmei
Bothapan = Pouthi Ban
Cơ Tham = Huyện Koah Thum
Cần Đan = Tỉnh Kadal.

Bản đồ quân sự Mỹ khu vực so với bản đồ hành chính hiện nay của huyện Kaoh Thum  tỉnh Kandal: