Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

[2.32] Thông tin sơ lược về cơ cấu tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trên chiến trường Campuchia trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1970

2017071944027

Dưới đây là tổng hợp của phía Mỹ thông tin sơ lược về cơ cấu tổ chức trên chiến trường Campuchia, thời điểm tổng hợp là tháng 11/1971


A. Quân khu C304 hay Quân khu C40

I. Cuối tháng 11/1970 đã có thông tin về việc đổi tên Đoàn Bình Long thành Quân khu 304/ QK C40, hoạt động ở địa bàn Campuchia. Đoàn Bình Long là đơn vị chiến đấu cấp Sư đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam gồm có 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn đặc công (?). Khi chuyển thành Quân khu, thì có thêm trách nhiệm phụ trách địa bàn lãnh thổ ở Campuchia. Các Trung đòan gồm: Trung đoàn 174, Trung đoàn 203, Trung đoàn 205.

II. Địa bàn hoạt động của Quân khu 304/QK C40 gồm có 6 tỉnh ở Campuchia, gồm: Kompong Cham, Kompong Thom, Stungtreng, Kratie, Moldukiri, Siem Reap.

III. Cán bộ chỉ huy
- Tư lệnh: Đồng Văn Cống tức Chín Hồng  (Hiện là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng của Chính phủ lâm thời miền nam Việt Nam). Phó Tư lệnh Tư Đức, Chính ủy Hai Lê, Phó chính ủy Phan Khéo (nguyên Phó Chính ủy Sư đoàn 5).

IV. Các đơn vị trực thuộc
1. Trung đoàn 174 (Mật danh E2)
- Trước đây gồm có 3 tiểu đoàn 4-5-6.
- Ngày 3/10/1970, tiểu đoàn 6 tách khỏi Trung đoàn 174 để tăng cường cho Trung đoàn 207. Trung đoàn 174 tổ chức tiếp tiểu đoàn 11, với cán bộ lấy từ Tiểu đoàn 5. Tiểu đoàn này gồm có 2 đại đội bộ binh và 1 đại đội trợ chiến.
- Cán bộ: Trung đoàn trưởng Hoàng Cao Hỷ, Trung đoàn phó Nguyễn Đức Quân, Chính ủy Mai Sơn, Tham mưu trưởng Ngô Phú.
- Gồm có các đơn vị: Tiểu đoàn 4-5-11, đại đội 16 súng cối (quân số 46 người), đại đội 18 SMPK (quân số 55 người) , đại đội 20 thông tin (quân số 48 người), đại đội 23 quân y (quân số 10 người).

2. Trung đoàn 203
- Trung đòan được thành lập tháng 7/1970 tại Pea Dak – Siem Reap Campuchia. Cán bộ chủ chốt của Trung đoàn được lấy từ Trung đoàn F21 – Sư đoàn 5. Các đơn vị thuộc Trung đoàn 203 gồm Tiểu đoàn đặc công Z28 (Sư đoàn 5), Đại đội đặc công K24 (Trung đoàn F21 sư đoàn 5).
- Cho đến 2/1971, Trung đoàn 203 gồm có các tiểu đoàn: Tiểu đoàn 31, 32, 34, 36 bộ binh, tiểu đoàn 33 đặc công, tiểu đoàn 35 huấn luyện. Các cơ quan, đại đội khác gồm: Ban Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, đại đội K16 súng cối 82mm, đại đội K17 DKZ75mm, đại đội K18 SMPK, đại đội K19 công binh, đại đội K20 công binh, đại đội K21 trinh sát, đại đội K22 vận tải, đại đội K23 quân y.
- Đầu tháng 3/1971 tiểu đoàn 36 và đại đội 1 tiểu đoàn 33 đặc công tách khỏi trung đoàn 203 để bổ sung cho Đoàn 48.
- Cán bộ chỉ huy: Trung đoàn trưởng Ba Liễu, trung đoàn phó Tám Bảo, Chính ủy Tư Giảng, Phó chính ủy Hai Giảng.
- Quân số khoảng 1300 người.
- Tiểu đoàn 31 nguyên là tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7, được bổ sung cho Trung đoàn 203 từ 9/1970. Tiểu đoàn 33 đặc công nguyên là tiểu đòan Z28 đặc công sư đoàn 5. Tiểu đoàn 34 được thành lập tháng 5/1970 ở khu vực sông Măng, Bình Long, đặt tên là tiểu đoàn 50 của Sư đoàn 5 chuyên nhiệm vụ huấn luyện, sau đó được đổi tên thành tiểu đoàn 6. Tháng 11/1970 được tổ chức lại và đổi tên thành tiểu đoàn 34. Tiểu đoàn 35 huấn luyện thành lập tháng 3/1971 tại Rolous – Siem Reap – Campuchia. Đại đội K18 SMPK nguyên là Đại đội 18B SMPK của Trung đoàn F21 sư đoàn 5, được biên chế về Trung đoàn 203 tháng 7/1970. Đại đội K21 trinh sát, nguyên là Đại đội K21 trinh sát của Trung đoàn F21 sư đoàn 5, biên chế về Trung đoàn 203 tháng 5/1971.

3. Trung đoàn 205 (Hay F21)
- Trung đoàn 205 nguyên là Trung đoàn 275 (F21) sư đoàn 5 thay đổi phiên hiệu và biên chế về Quân khu C40.
- Tháng 5/1970, Trung đoàn 205 tấn công và đánh chiếm Kratie (tiểu đoàn J1, đại đội C24 đặc công trung đoàn F21 và tiểu đoàn Z28 đặc công sư đoàn 5, tiểu đoàn J2 chặn viện trên đường Kratie đến Stungtreng, tiểu đoàn J3 chặn viện trên đường từ Kratie đi Kompong Cham), Stungtreng (tiểu đoàn J2 cùng đại đội 2 đặc công của tiểu đoàn đặc công Z28 tấn công Stungtreng, tiểu đoàn J1 và J3 chặn viện). Tháng 6/1970 trung đoàn tấn công thành phố Siem Reap.
- Cán bộ: Trung đoàn trưởng Mười Trí.
- Trung đoàn có 5 tiểu đoàn, phiên hiệu từ J1 đến J5, 9 đại đội trực thuộc phiên hiệu từ C16 đến C24.

B. Quân khu Tây Nam
- Quân khu Tây Nam, Campuchia, hay còn gọi là Quân khu B, được thành lập tháng 6/1970, hoạt động trên địa bàn 8 tỉnh: Battambang, Pursat, Kompong Chnang, Kompong Speu, Kohkong, Kampot, Takeo, Kandal.
- Theo các tài liệu thu giữ ở rừng U Minh tháng 1/1971 thì Đoàn Phước Long có nhiệm vụ tác chiến trên địa bàn Quân khu Tây Nam.
- Cán bộ của Quân khu Tây Nam gồm:
+ Chính ủy: Bảy Lúa, nguyên là Chính ủy Đoàn 195.
+ Nguyễn Tấn Sĩ – Nguyên tham mưu trưởng Quân khu 3 (Quân khu 9)
+ Trần Minh Đức hay Tư Đức, nguyên Phó tư lệnh tiền phương Quân khu 3.

I. Đoàn Phước Long (Mật danh Đoàn 5), quân khu Tây Nam
1. Đoàn Phước Long (Đoàn 5) được thành lập tháng 4/1970, ở Campuchia và trực thuộc Quân khu Tây Nam. Địa bàn hoạt động trên 8 tỉnh Tây và Tây Nam Campuchia.

2. Lúc đầu, Đoàn Phước Long gồm có Tiểu đoàn D410 (Đơn vị bảo vệ hành lang của Quân khu 3/B2), Tiểu đoàn Z9 (Nguyên là bộ phận thuộc E3 Công trường 9), tiểu đoàn D-12 (Gồm chủ yếu là tiểu đoàn T40 và T50, trước đây thuộc 1 đơn vị trong khu vực phía Đông và duới QK3).

3. Tháng 6/1970, sau khi được bổ sung quân số, Đoàn đã được thay đổi lên cấp Sư đoàn và gồm có 3 trung đoàn là E1, E2, E3. Bộ phận của E3 gồm có các tiểu đoàn d4 (d410), d9 (Z9) và d5 (T50).

4. Tháng 11/1970, Đoàn Phước Long thành lập Trung đoàn mới phiên hiệu E4.

5. Cán bộ chỉ huy của Đoàn:
+ Đoàn trưởng: Nguyễn Tấn Sỹ, tức Hai Sỹ, nguyên là Phó tham mưu trưởng Quân khu 3
+ Phó Đoàn trưởng: Tư Cường, được chuyển về Ban đặc công Miền tháng 10/1970. Chưa rõ người thay thế.
+ Chính ủy: Trần Văn Mậm (?), tức Bảy Sơn, nguyên là Tham Mưu trưởng QK3

6. Thành phần của Đoàn gồm: Cho đến tháng 1/1971, 4 trung đoàn bộ binh của Đoàn Phước Long mang phiên hiệu E1, E2, E3, E4, Trường chính trị K30 và một số đơn vị trực thuộc.
a. Trung đoàn 3
* Thành lập tháng 6/1970 ở Kampot, gồm có tiểu đoàn 4 (tức d410), d5 (tức T50 đặc công), d9 (Nguyên là đơn vị thuộc E3 Công trường 9). Địa bàn hoạt động là tỉnh Kompong Speu và Kampot.
* Cán bộ trung đoàn (Cho đến 1/1971): Trung đoàn trưởng Phong, Chính ủy Doãn Tập, Tham mưu trưởng Út Dũng (Nguyên là d trưởng d410), tham mưu phó Phách, Ban chính trị Lê Xuân Miên, Tuyên huấn: Long, Trợ lý cán bộ: Bình.
* Quân số: Không có thông tin
* Vũ khí: DKZ 75, cối 82mm, SMPK 12,8mm.
* Các đơn vị trực thuộc: 3 tiểu đoàn bộ binh d4-d5-d9, Đại đội SMPK 12,8mm, Trung đội thông tin, Trung đội trinh sát, Trung đội công binh, Trung đội vận tải, Trung đội quân y.
* Tiểu đoàn 4/ Trung đoàn 3
- Nguyên là Tiểu đoàn 410 bảo vệ hành lang, khi về Đoàn Phước Long được mang phiên hiệu d4, từ 6/1970.
- Khoảng 80% quân số là người Khmer.
- Cán bộ (đến 1/1971) gồm: Tiểu đoàn trưởng Hồng, Tiểu đoàn phó Vệ, CHính trị viên Ba Nhỏ, Chính trị viên phó Nguyễn Ngữ, Chính trị viên phó Bảy Sương, Tham mưu trưởng Mười Nhỏ, Tham mưu phóTrung, Trợ lý chính trị Hùng, TRợ lý an ninh Năm Thanh, Tài chính Cúc, Y sỹ Nghị.
- Quân số khoảng 250 người.
- Gồm có 3 đại đội bộ binh C1 - C2 - C3, đại đội hỏa lực C4, trung đội tuyên truyền và thông tin, trung đội trinh sát, trung đội vận tải.
- Đại đội 1/d4
+ Cán bộ: Đại đội trưởng Tư Vinh, CHính trị viên Hai Kiêm, quản lý Ba Huỳnh, y tá Phong.
+ Quân số 40 người, có 2 trung đội.
- Đại đội 2/d4
+ Cán bộ: Đại đội trưởng Thái Trung Nhơn tức Hoàng Nam, Đại đội phó Tiếp, Chính trị viên Năm Tròn (Hy sinh 11/1970), y tá Đức.
+ Quân số 40 người, có 2 trung đội.
- Đại đội 3/d4
+ Cán bộ: Đại đội trưởng Lê Hòang VIệt tức Ba Việt, Đại đội phó Tạ Hoàng Nam tức Bảy Sơn, Chính trị viên Bảy Sương (Hiện là chính trị viên phó tiểu đoàn 4), y tá Lâm.
+ Quân số 35 người, chia thành 1 trung đội bộ binh, 1 trung đội hỏa lực.
- Đại đội 4/d4
+ Cán bộ Ba Hòa, Chính trị vien Ba PHa, quản lý Tư Cao, y tá Bảy Sang.
+ Quân số 70 người, trang bị 1 DKZ75mm, 2 cối 82mm, 2 SMPK 12,8mm, 1 súng đại lien Goryunov, chia thành 3 trung đội.
* Địa bàn hoạt động của các tiểu đoàn như sau:
- Tiểu đoàn 4 phụ trách khu vực Tani đến Kep, tỉnh Kampot. Nhiệm vụ của d4 là tấn công các cứ điểm Tuk Meas và Kompong Trach, tỉnh Kampot và cắt đứt đường nối từ Tuk Meas, Tani và Kompong Trach.
- Tiểu đoàn 5 hoạt động dọc QL4 từ thủ đô Nam Vang đến cảng biển Kompong Xom
- Tiểu đoàn 9 hoạt động ở khu vực từ Kampot đến Takeo.

b. Trường Quân chính K30 – Đoàn Phước Long
- Số hòm thư 810010 T11.
- Đây là đơn vị cỡ tiểu đoàn, theo thông tin thu nhận đến 26/10/1970 thì trong tương lai Trường có khả năng nhận và huấn luyện cho 5 đại đội. NGoài ra trường còn dạy tiếng Khme cho cán bộ.

c. Hoạt động của Trung đoàn 3
- Từ tháng 6/1970, Trung đoàn hoạt động chủ yếu ở địa bàn tỉnh Kampot, có phối hợp với Trung đoàn 1 ở tỉnh Kompong Speu. Nhiệm vụ của Trung đoàn 3 là tấn công và phá hủy các đường giao thông chính để ngăn chặn tăng viện từ Kompong Xom đến Nam Vang (Phnom Penh) hoặc ngược lại. Đơn vị có nhiệm vụ tấn công và phá hủy các cứ điểm của quân VNCH và quân đội Campuchia và hỗ trợ phong trào nổi dậy của nhân dân trong vùng.
- Từ tháng 4/1970, Đoàn Phước Long đã thực hiện các đợt tấn công sau:
+ Tháng 4/1970 đánh chiếm đồn Ton Hon gần biên giới Việt Nam – Campuchia do 1 đại đội quân đội Campuchia đóng giữ. Các đơn vị tham gia gồm có d4, 1 trung đội của d9 (Lúc này E3 chưa thành lập). Kết quả là 13 lính Campuchia bị bắt giữ, thương vong về phía VIệt Nam có 2 hy sinh và 3 bị thương.
+ Tháng 5/1970, tiểu đoàn T40, d9 tấn công đồn Kem Bani nhưng không thành công.
+ Tháng 6/1970, Đoàn tấn công và chiếm giữ thành phố Kompong Speu trong 2 ngày. Các đơn vị tham chiến là d5, d9 của E3, d T40 của E1. Thương vong phía bộ đội Việt Nam là 40 hy sinh, 120 bị thương.
+ Tháng 8/1970d5/E3 tấn công đơn vị quân chính phủ Campuchia ở Nhà máy xi măng ở ngoại vi thành phố Kampot. Sau đó d5 tấn công Takeo và thu giữ được một số vũ khí.
+ 20/11/1970, d4/E3 tấn công Tuk Meas. Thương vong về phía bộ đội Việt Nam: Có 40 hy sinh (Gồm 2 chính trị viên đại đội, 4 cán bộ trung đội). Tiểu đoàn mất 1 DKZ 75mm, 1 sung B40, 1 súng máy, 1 RPD, 1 AK47, 1 điện thoại và dây thông tin.

C. Quân khu C20
1. Phía Mỹ ghi nhận thông tin Quân khu C20 có thể thành lập cùng thời điểm với Quân khu C40, tháng 7/1970.

2. Quân khu C20 là tổ chức đơn vị mới có nhiệm vụ cung cấp hậu cần cho các hoạt động trên đất Campuchia, thiết lập các hệ thống nhà kho và hành lang hậu cần kết nối với Cục Hậu cần Miền.

3. Cán bộ chỉ huy: Tư lệnh Lương Văn Nho tức Hai Nhã (Nguyên cán bộ Cục Hậu cần Miền), Phó tư lệnh thứ nhất là Nguyễn Văn Sĩ (tức Sĩ Kiểng), Phó tư lệnh Lê Văn Ngọc tức Sáu Ngà (Nguyên Cục phó Cục hậu cần Miền), Trưởng ban hậu cần Xứng (bác sỹ).

4. Địa bàn: Địa bàn của QK C20 là khu vực dọc biên giới Việt Nam – Campuchia thuộc tỉnh Tây Ninh và Bình Long. Hậu cứ của Đoàn ở Đầm Be Campuchia.

D. Quân khu C30
1. Quân khu C30 được thành lập sau khi quân đội Mỹ và VNCH tấn công qua Campuchia tháng 5/1970. Địa bàn của Quân khu gồm có tỉnh Prey Veng và Svay Rieng. Chưa rõ thông tin về cơ cấu tổ chức của Quân khu C30.

2. Quân khu C30 có các trung đoàn 88 (Tức Đoàn Z10) và 320 (Tức Đoàn 1 phân khu Long An) [Có thể chưa đầy đủ các đơn vị - Rx chú thích thêm].

3. Trung đoàn 88 chia thành 2 bộ phận, 1 bộ phận ở lại đông Quân khu 2 (Địa bàn quân khu 8) để phá chương trình bình định nông thôn của VNCH. Bộ phận khác di chuyển về QK C30 nhưng sau đó lại quay về địa bàn QK2 (QK8) sau đợt hoạt động của Mỹ và VNCH.
- Cán bộ của Trung đoàn: Chính ủy Nguyễn Văn Thành, Phó chính ủy Nguyễn Văn Phán.

Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

[3.44] Báo "Pháo Biên Hòa" - Tờ báo in của Đoàn pháo binh Biên Hòa QK7, năm 1969

20170714

Đoàn pháo binh Biên Hòa là đơn vị pháo binh cấp Sư đoàn/ Trung đoàn trong kháng chiến chống Mỹ, hoạt động trên chiến trường QK7. Cái tên Biên Hòa gắn liền với các chiến công pháo kích vào sân bay Biên Hòa bằng pháo phản lực DKB.

Dưới đây là hình ảnh chụp tờ báo "Pháo Biên Hòa", do Đoàn pháo binh Biên Hòa in và xuất bản, số báo" 43 ngày 5/6/1969. Tờ báo có 4 trang, tuy nhiên trang thứ 4 chất lượng ảnh chụp không tốt nên không đọc rõ được thông tin.







Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

[2.31] Diễn biến sơ lược trận chiến ngày 5/5/1968 của Trung đoàn 2 và Trung đoàn 22 - Sư đoàn 3 Sao Vàng ở Phù Mỹ, Bình Định

2017070966041

I. Thông tin sơ lược của phía Mỹ


1. Thông tin tình báo về các đơn vị thuộc Sư đoàn 3 Sao Vàng QK5 tham gia chiến đấu tháng 5/1968

* Trung đoàn 22 gồm có các tiểu đoàn

- Tiểu đoàn 7, tiểu đoàn trưởng Nguyen Van Luyen, quân số 125.

- Tiểu đoàn 8, tiểu đoàn trưởng Xuong, quân số khoảng 232.

- Tiểu đoàn 9, tiểu đoàn trưởng Xung, quân số khoảng 240


* Trung đoàn 2 gồm các tiểu đoàn

- Tiểu đoàn 93, tiểu đoàn trưởng Nhon, quân số 215

- Tiểu đoàn 95, tiểu đoàn trưởng Van, quân số 200

- Tiểu đoàn 97, tiểu đoàn trưởng Vinh, quân số 140.


* Trung đoàn 18A (Hay Trung đoàn 12) gồm các tiểu đoàn

- Tiểu đoàn 7, tiểu đoàn trưởng Tuong, quân số 200

- Tiểu đoàn 8, tiểu đoàn trưởng Vo Van Quy, quân số 175

- Tiểu đoàn 9, tiểu đoàn trưởng Vung, quân số 200


2. Nhiệm vụ của Trung đoàn 22 và 3 là uy hiếp và đánh chiếm Sở chỉ huy chi khu Phù Mỹ và giải phóng vùng lân cận. Trung đoàn 18 có nhiệm vụ giải phóng khu vực Quy Nhơn.


3. Diễn biến sơ lược

- Ngày 5/5/1968: Rạng sáng, hàng loạt căn cứ quân Mỹ ở khu vực Phù Mỹ - Bồng Sơn bị tấn công bằng pháo cối, súng bộ binh và bộ binh.


- Lúc 11h46 ngày 5/5/1968, Đại đội A/1-50 giao chiến với khoảng 2 tiểu đoàn bộ đội Việt Nam. Phía Việt Nam sử dụng súng bộ binh, B40, DKZ 57 và cối 82mm tấn công quân Mỹ. Cuộc tấn công khởi đầu bằng việc sử dụng súng chống tăng pha shủy 5 trong số 9 xe thiết giáp M113 của Đại đội A, ngay sau đó tấn công bộ binh. Hướng tấn công như sau: Hướng tấn công chính từ các cao điểm phía Tây Nam khu chiến, Súng tự động, súng chống tăng bắn từ hướng Đông Nam, Đông Bắc và Tây Bắc.


- Đại đội C/1-50 và Đại đội B/1-69 được gửi đến tăng viện, xuất phát lúc 12h12. Đại đội C đã đến kịp, còn đại đội thiết giáp đã vấp phải sự tấn công của phía Việt Nam trước khi tiến đến được khu vực giao chiến.


- Đại đội B/1-50 được tung tiếp vào khu chiến. Trận chiến trải dài trên đoạn 800m. Giao chiến diễn ra cho đến tận 19h30.


- Đại đội A/1-50 được rút về căn cứ Mỹ. Đại đội C và B/1-50 cùng đại đội B/1-69 thiết lập vị trí phòng ngự ban đêm.


- Lúc 03h32 sáng 6/5/1968, vị trí phòng ngự ban đêm này bị bộ đội Việt Nam tấn công, diễn ra cho đến tận 04h45.


- Thông tin phía Mỹ ghi nhận sau trận chiến: Có 3 tiểu đoàn tham gia trận đánh, gồm các tiểu đoàn 97 (Tức tiểu đoàn 3) của Trung đoàn 2, tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 22 – Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5.




II. Sơ lược diễn biến từ website: quyettamdoan.wordpress.com
(https://quyettamdoan.wordpress.com/2016/03/15/trung-doan-22-su-doan-3-sao-vang/)

          Cũng như thời kỳ lính “kỵ binh bay” xuất hiện, một câu hỏi được đặt ra cho chiến sĩ ta là: với thực lực hiện nay liệu có thể diệt gọn được đơn vị xe bọc thép Mỹ không? Trận đánh Diêm Tiêu mới đây của Trung đoàn 22 là một kinh nghiệm nóng hổi, nhưng đó mới chỉ là trận tập kích xe “chết” ban đêm. Từ đó, làm sao có thể rút được kinh nghiệm đánh xe bọc thép cơ động ban ngày. Câu hỏi ấy đã trở đi trở lại trong các cuộc họp của Bộ tư lệnh Sư đoàn, trong các Hội nghị quân chính Trung đoàn, các cuộc họp của chi bộ, chi đoàn đại đội.


          Cuối cùng, phương án tác chiến đã được xác định. Hai Trung đoàn 22 và 2 sẽ mở đợt hoạt động tại khu vực ba xã Mỹ Lộc, Mỹ Trinh, Ân Tường, nơi tiếp giáp hai huyện Phù Mỹ với Hoài Ân. Sư đoàn chủ trương bố trí các bộ phận chặn đầu, vận động tiến công bên sườn, khóa đuôi nhiều lớp khép kín đội hình địch, diệt nhanh, gọn và chắc từng chi đoàn xe bọc thép địch.


          Ngày 3-5, Sư đoàn trưởng Lư Giang cùng với Chính ủy Sư đoàn Nguyễn Nam Khánh đưa Sở chỉ huy tới khu vực Hòn Nọc để theo dõi và chỉ huy chung cả hai hướng Nam và Bắc tỉnh. Sở chỉ huy tiền phương đặt sát đội hình Trung đoàn 2 do Phó Sư đoàn trưởng Huỳnh Hữu Anh và Phó Tham mưu trưởng Sơn Diệp phụ trách.


          0 giờ 30 phút ngày 5-5, phốỉ hợp với chiến trường toàn Quân khu, cùng một lúc, các đơn vị đặc công, công binh, pháo binh của Sư đoàn tiến công tám cứ điểm và căn cứ, trận địa pháo địch trên trục đường số 1. Một đoạn đường dài hơn mười kilômét từ cầu Ông Diệu qua Bình Dương, Đèo Nhông đến giáp quận lỵ Phù Mỹ hoàn toàn bị cắt đứt, buộc Bộ chỉ huy quân Mỹ ở Bình Định phải tung Lữ đoàn Không vận 173 đi giải tỏa.


          Tờ mờ sáng, từng bầy xe tăng, xe bọc thép từ quận lỵ Phù Mỹ xồng xộc thọc lên. Trên trời, từng bầy trực thăng bay sát các ngọn cây, cánh quạt khua ầm ĩ. Phía sau đoàn xe là bộ binh Mỹ.


          Trong các công sự, các chiến sĩ Trung đoàn 2 bình tĩnh chờ địch. Sở chỉ huy Sư đoàn, Trung đoàn luôn thông báo về tình hình địch cho các đơn vị.


          … Hơn 12 giờ trận đánh mới diễn ra, ta đã tiêu diệt 11 xe tăng địch.


          Địch cụm lại trong đêm trên trận địa là thời cơ rất thuận lợi cho ta tiêu diệt. Sư đoàn quyết định sử dụng sáu đại đội mạnh nhất của Trung đoàn 22 và Trung đoàn 2 vào trận tập kích này.


          3 giờ 30 phút ngày 6, hai phát pháo hiệu đỏ vọt lên không trung. Sau đó là một loạt tiếng nổ. Trong ánh chớp của lựu đạn và ánh đèn, bóng các chiến sĩ xung kích loang loáng lao về phía địch. Cối 60, cối 82, súng máy từ các hướng nổ giòn vào đoàn xe tăng địch đậu từng cụm trên bờ một con suối cạn giữa cánh đồng. Gần một chục khối lửa khổng lồ bùng lên. Giữa lúc các mũi xung kích đang phát triển thuận lợi thì một cụm hỏa lực địch rất hiểm hóc xuất hiện ở góc một vườn dừa bắn xả về hướng Tiểu đoàn 3. Thì ra trong lúc nhá nhem tối, một số xe tăng địch đã di chuyển đội hình, ngụy trang kín, khiến các chiến sĩ trinh sát không phát hiện được hết. Bây giờ, chúng trở thành những ổ đề kháng hết sức lợi hại.


          Ở hướng Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 22, các chiến sĩ lợi dụng con mương cạn luồn được vào giữa cụm xe thứ hai. Phó Đại đội trưởng Đinh Văn Nho trực tiếp bắn quả B40 đầu tiên, diệt một xe tăng làm hiệu lệnh. Vài phút sau, những tiếng nổ tiếp theo, ba chiếc khác bốc cháy, lửa hút lên trời đỏ rực. Bị đánh thốc từ bên trong, bọn địch hốt hoảng quay nòng súng bắn vào nhau. Lợi dụng tình thế đó, từ bên ngoài, các chiến sĩ đánh thốc vào diệt thêm năm chiếc khác. Nhưng đạn B40 đã hết, Nho ra lệnh tập trung lựu đạn, chai cháy lại đánh tiếp.


          Hướng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 2 cũng lâm vào tình trạng thiếu đạn tương tự. Sau khi phá tan được những ổ đề kháng trong vườn dừa, các chiến sĩ dùng chai cháy và thủ pháo diệt thêm ba chiếc xe tăng nữa thì Sở chỉ huy Trung đoàn ra lệnh rút.


          Trận tập kích diệt 21 xe tăng và xe bọc thép đêm mồng 5 rạng ngày 6-5 cộng với 11 chiếc bị tiêu diệt ban ngày đã giáng đòn phủ đầu đích đáng vào Lữ đoàn Không vận 173 Mỹ. Trong vòng 18 tiếng đồng hồ, kể từ 11 giờ trưa ngày 5 đến 5 giờ sáng ngày 6 đã có 32 xe tăng, xe thiết giáp địch bị tiêu diệt, trong đó có hai chiếc bị bắt sống. Ba đại đội cơ giới cùng với hai đại đội bộ binh Mỹ khác bị loại khỏi vòng chiến đấu.


          Sau trận đánh, Sư đoàn chủ trương giãn đội hình lui về hướng Mỹ Trinh. Trung đoàn 2 chuẩn bị đánh trận thứ hai. Trung đoàn 22 vẫn đứng ở khu vực Ân Tường để đánh địch giải tỏa.


III. Bản đồ khu vực chiến sự (xã Mỹ Lộc, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định)



Thứ Bảy, 1 tháng 7, 2017

[7.13.1] Sơ lược diễn biến trận bộ đội đặc công Việt Nam tấn công căn cứ thông tin của Mỹ trên đỉnh núi Bà Đen (Tây Ninh) đêm 13/5/1968 - Phần 2

20170515 - Phần2

Link phần trước:

Link phần trước: 

[7.13] Sơ lược diễn biến trận bộ đội đặc công Việt Nam tấn công căn cứ thông tin của Mỹ trên đỉnh núi Bà Đen (Tây Ninh) đêm 13/5/1968 - Phần 1

[7.13.1] Sơ lược diễn biến trận bộ đội đặc công Việt Nam tấn công căn cứ thông tin của Mỹ trên đỉnh núi Bà Đen (Tây Ninh) đêm 13/5/1968 - Phần 2



Bộ đội Việt Nam di chuyển lên cao hướng đông về phía ngôi chùa ở trên đỉnh của ngọn núi hướng đến máy phát điện. Những người lính Mỹ ẩn nấp ở phần còn lại của hầm số 8 không nổ súng.





Khi lên đến đỉnh, bộ đội Việt Nam tản ra và đặt chất nổ vào ngôi nhà vận hành và khu sĩ quan.

Tất cả các lính Mỹ ở trong ngôi chùa tự nhốt mình bên trong và không phải đối mặt với bộ đội Việt Nam.
Toàn bộ các anten VHF ở ngôi chùa đã bị phá hủy bởi chất nổ do bộ đội Việt Nam đặt.

Một nhóm nhỏ bộ đội Việt Nam xuyên qua chu vi căn cứ ở sườn dốc phía Bắc gần hầm số 2, Tây của khu hồ chứa/ bể nước.


Bộ đội Việt Nam tiếp tục tiến lên đỉnh núi để hội quân với nhóm tiến lên từ hướng hầm số 7 và 8.
Trong lúc này, lính Mỹ ở hầm số 1 phát hiện có di chuyển đến phía trước họ, và bắn bằng súng M79.
Điều này đã thu hút hỏa lực của bộ đội VIệt Nam từ phía sau và lính Mỹ sơ tán qua cửa sổ phía trước và đi đến phía Đông của hầm 20, gần khu hồ chứa nơi họ vẫn vẫn ở lại qua đêm.

2 lính Mỹ ở hầm số 5 và bắn súng M79, M16, mìn Claymore. Các binh lính này ở hầm số 5 cả đêm.
Có 2 lính biệt kích ở hầm số 1, 1 điều khiển súng máy trong khi người lính kia cố gắng vận hành radio để kêu gọi sự trợ giúp. Sau đó 1 lính biệt kích bị thương do đạn cối hoặc đạn phóng lựu (B40/B41) bắn vào nóc hầm.


Bình nhiên liệu butan cho bếp bị nổ và gây cháy hầm.
Lính biệt kích (người Việt) có thể nghe thấy Việt Cộng nói chuyện.

Lúc này, lính biệt kích rời hầm và tụt xuống núi một chút rồi dùng anten ngắn để liên lạc radio với lực lượng biệt kích phối thuộc ở phía Bắc của núi.

Lính biệt kích cố gắng chuyển tần số và sau 30 phú đã liên lạc được với trại Katum, và được lệnh chuyển tới tần số 68.00
 Ở tần số này, họ nghe thấy từ Ban 3/ Lữ đoàn 1/Sư đoàn 25 Mỹ rằng máy bay C47 đang trên đường tới hỗ trợ. 

Lính biệt kích tụt xuống núi nghe thấy tiếng những người lính khác nấp ở tảng đá gần hồ nước và liền di chuyển đến chỗ đó.
Khi đến nơi, lính biệt kích bảo vệ xung quanh hồ nước và có khoảng 20 lính Mỹ tập trung ở đây. Họ chỉ có 5 vũ khí và hầu hết binh lính không mặc đủ quần áo, một số chỉ có quần ngắn và không mang giầy. Một số đã bị thương.


Nhìn chung, lính Mỹ đã chia thành các nhóm nhỏ để kháng cự và ở yên vậy cho đến qua đêm. Họ không định di chuyển do bộ đội Việt Nam kiểm soát và hỏa lực từ máy bay C47.
Nhóm bộ đội VIệt Nam bảo vệ sân đỗ trực thăng như Sở chỉ huy và trận địa súng cối, họ đã chia thành 3 nhóm vào lúc khaonrg 22 giờ. Nhóm chỉ huy và súng cối vẫn còn ở lại, một nhóm nhỏ hơn di chuyển hướng Tây Nam đến hầm số 13 và nhóm lớn hơn di chuyển về hướng Tây lên đỉnh phía sau cái đập (?) nằm dưới nhóm bắn súng cối trên sân đỗ trực thăng.




Khi lực lượng lớn di chuyển về hướng Tây đến nhà hội họp [của Mỹ], nhóm nhỏ hơn tiếp tục tiến dọc các hầm số 13,12,11 bảo vệ vành đai phía Nam.

Các binh lính ở hầm số 11 cố gắng kích nổ mìn định hướng nhưng hầu hết không nổ. Do mỗi một hầm khi tiếp cận, bộ đội Việt Nam đều ném chất nổ hoặc lựu đạn vào qua cửa.
Lính Mỹ ở mỗi hầm cố thủ tại vị trí cho đến khi có lực lượng đến ứng cứu.
Một số lính Mỹ tiến từ phòng Orderly đến hầm số 10 nơi họ nằm rạp xuống biển lửa đến khi chất nổ phát nổ trong cửa.


Lúc này lính Mỹ chạy ra ngoài cửa sau và bắn hạ 2 bộ đội Việt Nam.
Sau đó họ chạy về hướng Tây đến hầm số 8 nơi họ gia nhập với phần binh lính còn lại từ hầm số 8 đến 12.
Hầm số 9:

Hầm số 9

Lính Mỹ ở hầm số 9 ngắt mìn Claymore và bắt đầu bắn bằng súng 12,7mm, sau đó được sơ tán khi hầm số 10 bị nổ





Lính Mỹ nhìn thấy máy phát điện bị nổ tung khi bộ đội Việt Nam ném thứ gì đó vào.
Tất cả lính Mỹ tập hợp lại ở xác hầm số 8 đã bị phá hủy do súng cối hoặc do súng phóng lựu.


Lính Mỹ thiết lập lực lượng bảo vệ khu vực vào khoảng 23h30 và phần lớn lính Mỹ ở lại đây cho đến sáng.
Một lính Mỹ rời hầm số 8 và tiến đến hầm chứa đạn gần ngôi chùa và lấy về 2 hòm đạn M79 sau đó bắn về hướng Đông đến khu mỏm đá trên hầm 12 và nằm rạp xuống do đạn bắn dày đặc từ nhóm chỉ huy bộ đội Bắc Việt trên sân đỗ máy bay trực thăng. Ngay lập tức sau khi bị bắn trả, lực lượng bộ đội Việt Nam bắt đầu rút quân.
Khoảng 22h00 lực lượng chính bộ đội Việt Nam đã tiến đến khu phía Tây lối đi đến ngôi chùa. Khi họ tiến đến nhà hội trường, nhà sĩ quan và câu lạc bộ, họ ném thủ pháo và lựu đạn vào các ngôi nhà này.


Một số ngôi nhà đã bị cháy do bị trúng đạn cối và đạn súng phóng lựu tấn công. Lính Mỹ ở những nơi này đã rời khỏi đây và đi đến hầm số 19 hoặc ẩn nấp ở các tảng đá rải rác trong khu vực.
Một chiếc đồng hồ bị nóng chả tìm thấy ở câu lạc bộ đã chỉ ra thời điểm đó là 22h20.
Gần như tất cả lính Mỹ đều ở trạng thái không mang vũ khí. Những người lính có vũ khí thì lưỡng lực khi bắn do họ không thấy rõ dấu hiệu các bóng [người] di chuyển và đạn dược ít cộng với họ không muốn di chuyển ra khỏi vị trí của họ.
Hầm 19 bị bỏ: Lính Mỹ đã bỏ hầm 19 do sức nóng từ vụ cháy nhà hội trường và đã di chuyển đến hang động gần hồ chứa nước và hầm số 20.


Lính Mỹ tụ tập tại hầm 20 hoặc gần hang và các tảng đá và họ duy trì phòng thủ tại đây cho hết đêm. Một số phát súng bắn đến hang và các tảng đá xung quanh và nẩy ra làm bị thương một số lính Mỹ.


Căn nhà của đội biệt kích đã bị phá hủy do đạn súng phóng lựu bắn trúng hộp chứa xăng và là nguyên nhân gây cháy căn nhà.
Hầu hết các ngôi nhà đã bị cháy đổ xuống đất.
Khoảng 23h30, đội ứng cứu và máy bay vũ trang đã đến khu vực.
Nhóm yểm trợ trực thăng bị bắn dữ dội từ căn cứ đỉnh núi. NHóm đã bắn phá dữ dội 1 khu vực cách ngoại vi căn cứ khoảng 75m để chống lại bất kỳ sự xâm nhập tiếp nào.
Người lính sử dụng điện đài ở căn cứ hướng dẫn trực tiếp nhóm yểm trợ trực thăng bắn và thả pháo sáng.
 

[6.10] Thông tin về hình ảnh trên blog Kyvatkhangchien.com bị lỗi do Photobucket.com không hỗ trợ link

20170701

Kể từ ngày 28/6/2017, site lưu trữ hình ảnh Photobucket.com không còn hỗ trợ link ảnh cho site thứ 3 nên hàng loạt ảnh trong blog Kyvatkhangchien.com đã bị lỗi không hiển thị. Rx đang cố gắng khắc phục dần.

Xin thông báo để mọi người biết. Nếu ai cần xem ảnh nào đó, đề nghị hãy chỉ rõ cần xem ảnh ở mục nào, Rx sẽ khắc phục.

Trân trọng, 1/7/2017