Thứ Hai, 29 tháng 2, 2016

[3.33.2] Bản tự nhận xét của bác Phan Văn Toản, ngày 29/4/1967, Trung sỹ - Trung đội phó, quê quán thôn Trung Mỹ, xã Hồng Xuân, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình

2016021719032.09
 
Bác Toản sinh ngày 25/10/1942, nhập ngũ 5/4/1962, Rongxanh đoán có thể thuộc đơn vị hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng. ĐỊa danh huyện Thư Trì hiện nay là huyện Vũ Thư (https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Th%C6%B0). Ngày 18 tháng 12 năm 1976 hợp nhất 3 xã Hồng Xuân, Tam Tỉnh và Đồng Thanh thành xã Hồng Lý. Ngày 13 tháng 1 năm 1989, chia xã Hồng Lý thành hai xã: Hồng Lý và Đồng Thanh.


Vậy quê quán của bác Toản hiện nay thuộc huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình .

Tài liệu này lính Mỹ thu được năm 1967 tại Bình ĐỊnh.




Thứ Tư, 24 tháng 2, 2016

[2.26] Vài nét về Trung đoàn 9 Quang Trung – Sư đoàn 304 và các tiểu đoàn trực thuộc, trong kháng chiến chống Mỹ



2016022426038

(Bài này Rong xanh đã post năm 2102, nay post lại trên blog)

1. Về Trung đoàn 9 Quang Trung – Sư đoàn 304



Đầu tháng 9/1965, Trung đoàn được lệnh hành quân về vùng Thanh Liêm - Hà Nam để củng cố và huấn luyện. Sau khi phần lớn lực lượng của Sư đoàn 304 đã hành quân vào chiến trường Tây Nguyên, Trung đoàn 9 cũng được tách khỏi đội hình sư đoàn.

Cuối năm 1966, do yêu cầu của chiến trường, Trung đoàn được lệnh bổ sung tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 cho mặt trận Bình - Trị - Thiên.

Ngay sau khi tổ chức cho 2 tiểu đoàn vào Nam chiến đấu, Trung đoàn khẩn trương tuyển quân tổ chức thành 2 tiểu đoàn mới và tiếp tục huấn luyện.

Tháng 7/1967, Trung đoàn trưởng Trần Văn Khám và Chính ủy Lê Khả Phiêu cùng Trung đoàn vào nam chiến đấu ở khu vực giáp ranh Quảng Trị - Ba Lòng đến triền sông Mỹ Chánh.

Tết Mậu Thân 1968, TRung đoàn 9 là 1 trong những trung đoàn chủ lực tấn công vào Huế.

Sau chiến dịch Huế 1968, Trung đoàn hoạt động độc lập và đến năm 1970 tham gia xây dựng và là 1 Trung đoàn mạnh của Sư đoàn 968.


2. Các tiểu đoàn trực thuộc Trung đoàn 9


Tiểu đoàn 1- Trung đoàn 9



- Tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 9 – Sư đoàn 304 tiền thân là Tiểu đoàn 250 – Trung đoàn Quang Trung thành lập 23/9/1947 tại Thanh Hóa. Năm 1950 Trung đoàn Quang Trung trực thuộc Sư đoàn 304 và đổi tên thành Trung đoàn 9. Tiểu đoàn 250 đổi tên thành Tiểu đoàn 1.

- Tháng 1/1965 tiểu đoàn 1 được lệnh sang Trung Lào chiến đấu cùng lực lượng Pathet Lào. Tháng 7/1965 đơn vị rút về nghỉ ngơi tại Quảng Bình, và di chuyển về Vụ Bản – Hòa Bình để huấn luyện trước khi chi viện vào miền Nam vào tháng 1/1966.

- Tháng 1/1967 Tiểu đoàn 1 – Trung đoàn 9 mang mật danh Đoàn chi viện 415 bắt đầu đi vào miền Nam.Tiểu đoàn 1 đến miền Nam (tỉnh Quảng Trị) ngày 15/3/1967, với quân số 450.

- Sau đó tiểu đoàn 1 di chuyển về huyện Phong Điền – tỉnh Thừa Thiên và trực thuộc Trung đoàn 6 bộ binh của Quân khu Trị Thiên. Lúc này tiểu đoàn 1 mang phiên hiệu tiểu đoàn 802. (Tiểu đoàn 802 cũ sau đó di chuyển về phía Nam Thừa Thiên và đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 4 và trực thuộc Trung đoàn 4).

- Mùa xuân năm 1967, Quân khu Trị Thiên có sự thay đổi về tổ chức, thành lập Trung đoàn 5 hoạt động ở phía Nam thành phố Huế. Tiểu đoàn 802 (hay tiểu đoàn 1/ Trung đoàn 9) di chuyển về phía Nam tỉnh Thừa Thiên, và từ tháng 9/1967 được biên chế về Trung đoàn 5.

- Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, tiểu đoàn có tham gia tấn công thành phố Huế (ga Huế) cùng với các bộ phận của Trung đoàn 5, và bị tổn thất nặng. Sau Tết, tiểu đoàn phân tán về khu vực đồng bằng trũng phía Nam huế, và hoạt động ở huyện Phú Vang và phía bắc huyện Hương Thủy, bao gồm cả vùng Nam – Đông và Bắc Huế.

- Tháng 5/1968 tiểu đoàn hoạt động tại khu vực Phú Bài.

- Tháng 7/1968, tiểu đoàn được biên chế vào Trung đoàn 9 bộ binh (Thành lập lại?) ở phía Tây tỉnh Thừa Thiên.

- Tháng 9/1968, tiểu đoàn rút về Lào, sau đó quay lại vùng A Shau/ Thừa Thiên vào tháng 1/1969.


Tiểu đoàn 3 hay d816 – Trung đoàn 9



-        Tiểu đoàn 816 hay Tiểu đoàn 3 – Trung đoàn 9 hình thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 1/1965 tiểu đoàn cùng với E9 tham gia chiến đấu ở Trung Lào, đến tháng 7/1965 thì quay về Quảng Bình.

-        Tháng 10/1965 E9 di chuyển về huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam.

-        Tháng 1/1966 E9 di chuyển về vùng rừng núi huyện Vụ Bản tỉnh Hà Nam.

-        Tháng 10/1966, E9 tham gia xây dựng khu vực phòng thủ tại Cửa Hội và 2 đảo Hòn Như – Hòn Mát.

-        Tiểu đoàn 3/ E9 di chuyển trong tháng 10/1966 đến địa giới tỉnh Ninh Bình và Nam Hà để huấn luyện.

-        Tháng 1/1967 d3 cùng với d1 bắt đầu lên đường vào Nam chi viện với mật danh Đoàn chi viện 416.

-        Tiểu đoàn 2 và Ban Chỉ huy Trung đoàn vẫn ở lại Bắc Việt Nam, và xây dựng Trung đoàn 9 mới.

-        Giữa tháng 3/1967, tiểu đoàn đổi phiên hiệu thành d416 và trực thuộc Trung đoàn 5 cùng với các Tiểu đoàn 808 và 814.

-        Tháng 4/1967, Tiểu đoàn di chuyển đến gần thị xã Quảng TRị. Sau đó d416 cùng với d814 tấn công Trung đoàn 1 VNCH tại La Vang. Sau đó tiểu đoàn rút quân về vùng Tây huyện Hải Lăng.

-        Tháng 5/1967 d416 đi về vùng ven biển huyện Hải Lăng - Quảng TRị

-        Sau khi Trung đoàn 5 bị giải thể, d416 quay về trực thuộc Mặt trận GP Quảng Trị.

-        Tiểu đoàn 818 (Tức Tiểu đoàn 2 – Trung đoàn 9) và Ban chỉ huy Trung đoàn 9 (Chi viện vào Nam VN tháng 9/1967) được đưa về Mặt trận Quảng TRị. Mặt trận Quảng Trị bao gồm các huyện Triệu Phong và Hải Lăng, có thể được thành lập vào tháng 9/1967.

-        Tháng 10 và 11/1967, d416 di chuyển về vùng ven biển để lấy lương thực.

-        Cuối năm 1967 và đầu tháng 1/1968, Quân khu Trị Thiên lại có sự thay đổi về tổ chức. Mặt trận GP Quảng Trị được đổi tên thành Mặt trận 7. d416 được đổi phiên hiệu thành d816 và di chuyển về tỉnh Thừa Thiên cùng với d818, và có thể là cả Ban chỉ huy Trung đoàn 9 cũ, để thành lập Trung đoàn 9 mới. Trung đoàn 9 được tái lập đầu tháng 1/1968 ở Tây Thừa Thiên, bao gồm d816 và d818.

-        Cuối tháng 1 và tháng 2/1968, d816, cùng với các bộ phận khác của E9, tham gia chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, tấn công vào thành phố Huế. Trung đoàn 9 có nhiệm vụ phối hợp cùng với Trung đoàn 6. Có thể d816 và d818 tiến vào thành phố Huế sau khi E6 đánh chiếm thành cổ Huế.

-        Tiểu đoàn 816 hiện diện ở lân cận thành phố Huế cho đến cuối tháng 3/1968.

-        Tháng 5/1968,

-        Tháng 1/1968, Mặt trận GP Quảng Trị được đổi thành Mặt trận 7. d416 đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 816 và di chuyển về Tây Thừa Thiên cùng với d818, để xây dựng Trung đoàn 9 mới.



-         Chiến dịch Mậu Thân 1968, d816 được tăng cường cho Trung đoàn 6, tham gia tấn công thành phố Huế.



-        Sau tháng 5/1968, có thể tiểu đoàn đã di chuyển về khu vực A Shau để nhận tiếp tế và bổ sung quân số.


Tiểu đoàn 2 hay d818 – Trung đoàn 9



-        d2/ E9 hình thành tháng 9/1947 tại Thanh Hóa với tên gọi là d304 thuộc Trung đoàn Quang Trung.

-        d2 tham gia chiến đấu tại Trung Lào đầu năm 1965 và quay về Quảng Bình – Việt Nam tháng 7/1965.

-        Tháng 10/1965 E9 di chuyển về huyện Bình Lục – tỉnh Hà Nam.

-        Tháng 1/1966 E9 di chuyển về vùng rừng núi Vụ Bản để huấn luyện.

-        Tháng 10/1966 tham gia xây dựng khu vực phòng thủ ở Cửa Hội và trên đảo Hòn Như và Hòn Mát.

-        Tháng 1/1967, khi d1 và d3 tách ra khỏi E9 lên đường vào Nam chi viện, d2 và Ban chỉ huy E9 vẫn ở lại miền Bắc VN để huấn luyện và xây dựng E9 mới. Khoảng cuối tháng 1, đầu tháng 2/1967, d4 và d7 của Trung đoàn 271 – Sư đoàn 3741 được biên chế về Trung đoàn 9. d4 và d7 trở thành d1 và d3 của E9.

-        D2 bắt đầu xuất phát chi viện vào Nam tháng 3 hoặc tháng 4/1967, với mật danh Đoàn chi viện 418, đến khu vực Tây Quảng Trị vào tháng 8/1967.

-        Tháng 9/1967, d2 đổi phiên hiệu thành d818 và trực thuộc Mặt trận GP Quảng Trị. Mặt trận GP Quảng Trị được hình thành từ việc giải thể E5 và Ban chỉ huy E9, và có thể cả 1 bộ phận của Tỉnh ủy Quảng Trị.

-        Tháng 1/1968, d818 và d816 cùng Ban chỉ huy E9 cũ di chuyển về Tây Thừa Thiên để xây dựng E9 mới.

-        Tuy nhiên E9 mới chưa đi vào hoạt động độc lập cho đến cuối tháng 1/1967, mà vẫn hoạt động phối hợp cùng với E6 chuẩn bị (?) cho chiến dịch Tết Mậu Thân 1968.

-        Trung đoàn 9 (Cộng thêm d815, mà trước đây trực thuộc E5) có thể đóng quân ở núi Don Trau (?) cuối tháng 1/1967. Từ đây, d818 và d816 di chuyển đến núi Gió để phối hợp với d806/ E6 trước khi tiến về Huế.

-        D818 hiện diện ở Huế tháng 2/1968, và đến rút khỏi Huế trước ngày 24/2/1968.

-        E9 vẫn tiếp tục tham gia tấn công vào tháng 5/1968.

-        Tháng 5/1968, d818 vẫn ở lân cận Huế, sau đó có thể rút về vùng A Shau để củng cố và bổ sung tiếp tế.

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

[2.25] Vài nét về Bệnh viện quân y 211 (Quân y viện 211) – Mặt trận B3 Tây Nguyên thời kỳ chống Mỹ cứu nước

2016022138025

Một số thông tin sơ lược về việc thành lập Quân y viện 211 Mặt trận B3 Tây Nguyên, trong đó đáng chú ý có chi tiết Đoàn bác sỹ vào B3 mang mật danh là Đoàn 84, mật danh này cũng được phía Mỹ ghi nhận là mật danh 1 bệnh viện ở B3 Tây Nguyên. Như vậy Viện 84 cũng là mật danh khác của Bệnh viện 211 Mặt trận Tây Nguyên B3

Cuối tháng 12 năm 1965, bác sĩ Võ Văn Vinh – Cục phó Cục Quân y dẫn đầu Đoàn 84 đi chiến trường B3. Các thành viên trong doàn phần lớn là cán bộ quân y của hai Bệnh viện 108, 103 và các nhân viên hậu cần, lái xe cùng một số trang thiết bị (1 xe Robur, 1 máy Xquang, nhiều bộ đồ mổ, sách chuyên môn… của Bệnh viện 108) vào chiến trường để xây dựng Bệnh viện 211. Số cán bộ của Bệnh viện 108 vào xây dựng Bệnh viện 211 đều giữ các vị trí chủ chốt: đồng chí Khuất Duy Kính – Chính ủy, đồng chí Lê Công – Viện phó hậu cần, bác sĩ Nguyễn Văn Âu – Viện phó phụ trách Nội, bác sĩ Nguyễn Hồng Nhơn – Chủ nhiệm Khoa Truyền nhiễm, bác sĩ Đinh Văn Lạc – Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật thần kinh, bác sĩ Trần Quang Minh – Chủ nhiệm Khoa Mắt, bác sĩ Đào Gia Thìn – Chủ nhiệm Khoa Tai – Mũi – Họng, bác sĩ Trần Hậu Tư – Chủ nhiệm Khoa Xquang và bác sĩ Nguyễn Tiến Bích phụ trách Ban Y vụ.

Ngoài số cán bộ đi từ Viện Quân y 108 còn có một số cán bộ cũ của Viện tăng cường cho Viện Quân y 103 cũng biên chế vào Viện 211: bác sĩ Lê Cao Đài – Viện phó ngoại, bác sĩ Phạm Phú Thọ – Chủ nhiệm Khoa Gây mê hồi sức, bác sĩ Nguyễn Bá Quát – Chủ nhiệm Khoa Tiêt niệu, bác sĩ Nguyễn Trọng Lương – Chủ nhiệm Khoa Răng – Hàm – Mặt, bác sĩ Đặng Chu Kỷ – Chủ nhiệm Khoa Lý liệu, bác sĩ Nguyễn Cảnh Cầu – Chủ nhiệm Khoa Da liễu, theo yêu cầu của Cục Quân y.

Thứ Tư, 17 tháng 2, 2016

[3.33.1] Bản thành tích và Tự nhận xét cá nhân của bác Lê Xuân Cảnh – Trung đội trưởng, đơn vị thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 3 Sao vàng, quê tại xã Cát Trinh huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định, năm 1966

2016021719032.01

Các giấy tờ của bác Lê Xuân Cảnh – Trung đội trưởng, đơn vị thuộc Đại đội 2 – Tiểu đoàn 50 – Đơn vị 493 (Phòng Hậu cần) Sư đoàn 3 Sao vàng Quân khu 5, quê tại  xã Cát Trinh huyện Phù Cát – tỉnh Bình Định, đề ngày 16/4/1967, do lính Mỹ thu năm 1967 tại Bình Định.

1.Bản thành tích “Chiến sỹ quyết thắng”
 





2.Bản “Tự nhận xét cá nhân”







Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016

[3.32] Giấy giới thiệu của bác Phạm Văn Quang đơn vị C009 (Trung đoàn 12/Sư đoàn 3 Sao Vàng), quê quán ở xóm 13 - xã Giao Bình - huyện Giao Thủy - Nam Định

2016021214028

Một số giấy tờ cá nhân của chiến sỹ Quân Giải phóng miền Nam, do lính Mỹ thu được tại Bình Định, ngày 24/9/1966, gồm

1. Giấy giới thiệu ký ngày 8/8/1965, của bác Phạm Văn Quang đơn vị C009 (Có thể là Trung đoàn 12/ Hay Trung đoàn 18A - Trung đoàn Quyết Thắng - Sư đoàn 3 Sao Vàng), quê quán ở xóm 13 - xã Giao Bình - huyện Giao Thủy - Nam Định



2. Giấy giới thiệu của bác Hà Văn Cảnh, đơn vị 493 (Là Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 Sao Vàng)




3. Một số giấy chứng minh của các chiến sỹ thuộc đơn vị 803 (Là Tiểu đoàn 8 - Trung đoàn 12 hay 18A - Sư đoàn 3 Sao Vàng), gồm:

1-Nguyễn Kim Mẫu
2-Lê Duy Thảng
3-Nguyễn Văn Kết
4-Nguyễn Văn Tạo
5-Phan Văn Trung
6-Phạm Văn Tuất
7-Mai Công Điều