2024091037940
Tài liệu này được Rongxanh dịch và tổng hợp năm 2009, nay post lại.
-----------------------------------------------------------------------------
Nội dung nghiên cứu dựa trên các tài liệu ghi chép khoảng
500 trang do Tiểu đòan 6 Thủy quân lục chiến SG thu được ngày 9/4/1972 tại khu
vực căn cứ Phượng Hoàng, Quảng Trị.
Tài liệu gồm 2 cuốn sổ ghi chép, của đc Trần Xuân Hà - Sỹ quan chính trị (CHính trị
viên?), Đại đội 1, Tiểu đoàn 397, Trung đoàn 203 tăng thiết giáp, với các ghi
chép từ 18/2/1972 cho đến ngày 6/4/1972, gồm các thông tin chính sau:
A. Thông tin chung
1. Trung đoàn 203, trực thuộc Bộ tư lệnh tăng thiết giáp QDND
VN, do Thiếu tá Độ và Tri chỉ huy. Hậu cứ của Trung đoàn đóng tại huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình.
2. Trung đoàn có 4 tiểu đoàn và một số đại đội trợ chiến.
Phiên hiệu các đơn vị như sau:
a). Tiểu đoàn 297 thiết giáp
b). Tiểu đoàn 397 thiết giáp
c). Tiểu đoàn 512 huấn luyện cơ
giới
d). Tiểu đoàn 177 vận tải (mới hoạt
động)
e). Các đơn vị hỗ trợ: Công binh,
hậu cần, huấn luyện, quân y, thông tin và đại đội phòng không …
3. Trung đoàn 203 được trang bị tăng T54,
PT76 và T34, mật danh như sau: K1 (T54), K2 (PT76), K3 (có thể là T34). Mỗi đại
đội có từ 8 đến 10 xe tăng, mỗi tiểu đoàn có khoảng 25 tăng.
4. Trung đoàn được huấn luyện kỹ càng về chính trị, kỹ thuật,
chiến thuật cho các cán bộ trung đoàn và tiểu đoàn trong quá trình chi viện vào
miền Nam VN. Trong ngày đầu của chiến dịch (31/3/1972), Tiểu đoàn 397 đã không
tham gia do vẫn còn nằm tại Bắc Khe Sanh. Trận tấn công căn cứ Phượng Hoàng
ngày 9/4/1972 là trận đầu tiên mà Trung đoàn 203 tham gia. Tiểu đoàn 397 là lực
lượng chính của Trung đoàn và đã tham chiến với các đơn vị Thủy quân lục chiến SG.
5. Trung đoàn 203 chiến đấu ở vùng hạ Lào đầu năm 1971. Trung
đoàn chỉ được được trang bị T54 vào cuối năm 1971, thời điểm trung đoàn chuẩn bị
tấn công vào miền Nam VN. Với số tăng này, trung đoàn trang bị thêm các con lăn
phá mìn, xe thiết giáp gắn rocket phá rào, một số xe thiết giáp gắn súng cao xạ
12,8mm và 37mm.
6. Sau chiến dịch hạ Lào (4/1971), bộ phận chính của Trung đoàn
203 trở về Quảng Bình. Riêng tiểu đoàn 397 vẫn ở lại khu vực, vì đầu năm 1972
tiểu đoàn di chuyển thẳng từ Sepon đến Tây Bắc Khe Sanh khi trung đoàn và sở chỉ
huy Trung đoàn thâm nhập vào miền Nam VN từ huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình;
hợp nhất tại Adua Ap (Tây Bắc Khe Sanh) ngày 4/3/1972. Ghi chép lịch trình từ
Quảng Ninh như sau:
a). Từ Quảng Ninh, trung đoàn di
chuyển dọc đường 18 và đường 10 đến sông Bến Hải và xuyên qua Chà Lỉ. Trung
đòan dừng chân để tiếp nhiên liệu và di chuyển dọc theo Biên giới Lào - Việt đến
Mường Truông (Lào), Làng Sen và Mai Sóc, và hợp nhất tại Adua Ap. Chặng đường
đi khoảng 120 km, băng qua núi và đèo, dốc CỔng Trời. Trung đoàn đã bị không
quân SG tấn công dọc đường hành quân. Một xe bị trúng đạn bốc cháy nhưng lửa nhanh
chóng bị dập tắt.
b). Đoàn xe di chuyển vào lãnh thổ
SG (từ Làng Sen đến khu vực Mai Sóc) và sẵn sàng chiến đấu. Máy ủi tiến hành mở
đường. Thiết bị phá mìn di chuyển phía trước để phá mìn. Đoàn xe được bảo vệ bởi
pháo cao xạ 37mm gắn trên xe. Có thể đoàn xe được hộ tống bởi các đơn vị công
binh chống lầy?. Các trạm nhiên liệu được triển khai tại khu vực Chà Lỉ,
Adua Ấp, Làng Ruông và Làng Liệt (Bắc Khe Sanh).
c). Trước khi di chuyển từ điểm tập
hợp (Adua ấp) đến chiến trường, Trung đoàn 203 được nghiên cứu cẩn thận lịch
trình và lực lượng phòng thủ SG dọc đường 9 đến Đông Hà, Ái Tử, Nai Cửu và đông
– đông nam Quảng Trị. Đơn vị này có kế hoạch di chuyển trên con đường đường sử
dụng bởi quân lực SG từ Đông Hà tới Ái Tử và Quảng Trị và đến Tây căn cứ
Fuller, Mai Lộc, Tân Lâm, Carrol, Ba Hồ, Dốc Miếu …
d). Kế hoạch chiến đấu của Trung
đoàn là tấn công các mục tiêu một cách dữ dội và nhanh chóng bằng cách sử dụng
tối đa hỏa lực ngay từ đầu.
e). Trang bị và lương thực được
chuẩn bị cho chặng hành quân dài. Một xe tải mang đủ gạo cho 1 tháng và lương
khô cho 20 ngày. Ngoài ra mỗi xe tải còn mang thêm 5 viên đạn ? và 200 lít xăng
và một số phiếu xăng.
7. Một số thông tin khác trong tài liệu:
a). Quân đội ND VN sử dụng khoảng
2000 xe vận tải đến chiến tuyến.
b). Tấn công vào Quảng Trị do Sư
đoàn 304B với sự hỗ trợ của các Trung đoàn 812, Sư đoàn 324B, phối hợp với
Trung đoàn thiết giáp 202 và 203.
c). Bộ tư lệnh tăng thiết giáp
QDNDVN đóng chỉ huy sở tại Quảng Bình, chỉ huy trực tiếp các hoạt động của xe
tăng dọc DMZ (Khu phi quân sự).
d). Lực lượng cao xạ trong khu vực
bao gồm 17 đại đội pháo 37 và 57 mm được tăng cường 1 số đơn vị tên lửa. Lực lượng
này rất mạnh và có thể dễ dàng kiềm chế lực lượng pháo binh SG.
B. Tổ chức của Trung đoàn 203
1. Thông tin chung ghi chép cuối năm 1971
a). Chỉ huy Trung đoàn (Phiên hiệu
Bắc Sơn)
b). Ba Tiểu đoàn thiết giáp: 297,
397, tiểu đoàn 512 huấn luyện cơ giới
c). Tiểu đoàn D177 vận tải mới hoạt
động
d). Các đại đội chuyên môn:
* Đại đội 11 hậu cần, còn gọi là
Đại đội sửa chữa (Trước đây trực thuộc trung đoàn 202)
* Đại đội 12 súng máy phòng không
12,8mm
* Đại đội 13 thông tin
* Đại đội 14 công binh
* Đại đội 12 thiết giáp. Đại đội
này được biên chế vào Tiểu đòan 397 trong năm 1971 khi hoạt động ở hạ Lào. Trở
thành độc lập từ 7/2/1972.
* Đại đội 16 cao xạ 37mm
* Đại đội 17
* Đại đội 18 thiết giáp (trước
đây trực thuộc Trung đoàn 202)
* Đại đội 19
* Đại đội 20 thiết giáp (Có thể
là đại đội huấn luyện thiết giáp, do không tham gia chiến đấu nhưng lại được
trang bị xe tăng)
* Đại đội 25
* Đại đội 30 vận tải
2. Các Tiểu đoàn trực thuộc
a). Tiểu đòan 297: Tài liệu chỉ đề
cập đến Đại đội 2 và 7. Các chi tiết khác không rõ.
b). Tiểu đoàn 397 (Phiên hiệu Vạn
Tường): CUối năm 1971, có 6 đại đội:
* Đại đội 1 thiết giáp
* Đại đội 2 thiết giáp
* Đại đội 3 thiết giáp
* Đại đội 6 PT76
* Đại đội 15 thiết giáp (của
trung đoàn tăng cường)
* Đại đội 20 (Nhận toàn bộ tăng từ
đại đội 6)
* Tháng 12/1971, khi đóng tại Na
Lai (Sepon), tiểu đoàn đã được tổ chức lại để xâm nhập vào miền Nam chiến đấu,
bao gồm:
- Đại đội 6 ngừng hoạt động và 1
nửa số quân (29) ra Bắc VN để nhận xe tăng. Nửa còn số lại được tăng cường cho
đại đội 1. Đại đội 6 chuyển giao 3 xe tăng cho đại đội 3 và 3 xe tăng cho đại đội
20. Sau đó đại đội 3 lại chuyển giao số xe tăng này cho đại đội 20.
- Đại đội 15 trở về trung đoàn
vào tháng 12/1971.
- Đại đội 20: Không có thông tin
- Tiểu đoàn 397 có các đơn vị sau
khi tiến vào DMZ:
+ Đại đội 1
+ Đại đội 2
+ Đại đội 3
+ Đại đội 5 bộ binh (Từ Tiểu đoàn 512 tăng cường)
+ Đại đội 12 phòng không và Đại đội 16 pháo 37mm
+ Một Trung đội công binh (Của đại đội 14)
+ Một trung đội thông tin (Của đại đội 13), phiên
hiệu là B13
+ Bộ phận vận tải với 1 máy ủi và 1 máy phá mìn.
Do vậy Tiểu đoàn 397 là tiểu đoàn thiết giáp hỗn hợp
được tổ chức mạnh và xung kích bao gồm xe tăng, bộ binh, công binh, cao xạ và
thông tin.
c). Tiểu đoàn 512 hỗn hợp bộ binh
- thiết giáp bao gồm:
* Đại đội 4 xe tăng?
* Đại đội 5 bộ binh
* Đại đội 6 thiết giáp
d). Tiểu đoàn 177 vận tải
* Không có thông tin về các đại đội
trực thuộc. Trong tài liệu ghi: “ Tiểu đoàn mới này là đơn vị vận tải”
3. Cán bộ E – Trung đoàn
a). Trung đoàn trưởng (Reg CO): Độ
b). Trung đoàn phó (Reg XO): Tuấn
c). Trợ lý chính trị: Tùng
d). Chủ nhiệm chính trị: Phú
e). CofS – CHính ủy?? : Trí
f). Kỹ thuật xe: Tuy
4. Xe máy và trang thiết bị
a). Xe tăng bao gồm các loại K1
(T54), K2 (PT76), K3
b). Mỗi đại đội có 8 xe tăng T54,
mỗi tiểu đoàn với 3 đại đội có 24 xe tăng.
c). Ngoài ra mỗi đơn vị thiết
giáp còn trang bị xe tải, xe xích, máy ủi, máy phá mìn. Đại đội 1 Tiểu đoàn 397
có 1 xe chuyên phá rào trang bị rocket (FR???)
d). Một số loại xe mang pháo 37mm
C. Thông tin về Tiểu đoàn 397
1. Lịch sử:
a). Tài liệu cho biết, tiểu đoàn
hỗn hợp thường thay đổi để phù hợp với yêu cầu khi tham gia chiến dịch Hạ Lào đầu
năm 1971. ĐƯợc tăng cường các bộ phận của trung đòan 203 như: Đại đội 11 hậu cần,
Đại đội 15 thiết giáp, đại đội 18 thiết giáp, các đơn vị công binh … Sau chiến
dịch Hạ Lào tháng 4/1971, Tiểu đoàn 397 vẫn đóng tại khu vực Na Lai (Sepon)
nhưng 1 số đơn vị tăng cường được trả lại các trung đoàn tại Bắc VN. Do vậy Tiểu
đoàn 397 chỉ còn các đại đội 1, 2, 3, 6. Tháng 11/1971 Tiểu đòan 397 được lệnh
tổ chức lại lực lượng: Đại đội 6 tạm thời ngừng hoạt động (chia 2 phần) và tổ
chức lại với đại đội 5, Tiểu đoàn 512, cùng các đơn vị chuyên môn như thông
tin, công binh, cao xạ.
b). Đầu nă 1972, tiểu đoàn được lệnh
hành quân vào miền Nam VN. Một nửa đại đội 6 để lại xe tăng (ở Sepon) và đi bộ
ra Quảng Ninh - Quảng Bình để nhận xe tăng mới, sau đó quay lại ngay miền Nam
VN. Cùng thời gian, bộ phận chính của Tiểu đoàn 397 di chuyển đến Quảng Trị
theo lịch trình: Na Lai (Sepon) đến Ban Dong đến 16A. Từ 16 A, di chuyển đến
Lang Sen và hợp nhất tại Adua Ap để chờ nửa đại đội 6 từ miền Bắc VN trở về. Giữa
tháng 3/1972, các đơn vị đến điểm hẹn và di chuyển.
c). Khi đến Adua Ap một nửa đại đội
6 (trang bị xe tăng mới mang từ Bắc VN về) đã sát nhập với đại đọi 1. Và
như vậy đại đội 6 không còn tồn tại. Cán bộ của đại đội 6 cũ được chuyển thành
chủ chốt của đại đội 1 (bao gồm Le, đại đội phó Co XO và Hà - sỹ quan chính trị).
Các bộ phận của Tiểu đoàn 397 tham gia tấn công căn cứ Phượng Hoàng tháng
4/1972 bao gồm: Đại đội 1, 2, 3, 5, đại đội cao xạ, trung đội công binh, trung
đội thông tin, 1 xe tải.
d). Tóm lại Tiểu đoàn 397 được hợp
thành bởi các đơn vị tăng cường từ trung đoàn 202, 203. Đại đội 15 và 6 không
còn tồn tại phiên hiệu.
2. Cán bộ Tiểu đoàn
a). Tiểu đoàn trưởng Tư (nguyên
là Tiểu đoàn phó hậu cần)
b). Sỹ quan chính trị - CHính trị
viên?: Xuyên
c). Trợ lý chính trị: Nho
d). Tiểu đoàn phó: Việt
D. Tổ chức của Đại đội 1, Tiểu đoàn 397
1. Xe tăng và quân số khi ở tại Bắc Việt Nam (4/1972)
Trung đội 1 và 2 biên chế 57 người tại thời điểm bắt
đầu hành trình vào chiến trường, bao gồm 43 người biên chế trong 8 xe tăng,
chia ra như sau:
a). Xe tăng chỉ huy số 340: Hà, chính trị
viên và 6 thành viên kíp xe
b). Xe tăng của Trung đội 1
* Tăng số 334: Lái xe: Lê và 7
thành viên kíp xe.
* Tăng số 363: Lái xe là May và 5
thành viên
* Tăng số 364: Lai lái xe và 5
thành viên
* Tăng số 365: Tuấn lái xe và 6
thành viên
c). Trung đội 2
* Tăng số 383: Đức lái xe và 4
thành viên
* Tăng số 384: Lưu lái xe và 5
thành viên
* Tăng số 385: Thanh lái xe và 5
thành viên
d). Xe thông tin 15W: 8 thành viên (được gửi
đến đại đội 1)
e). Các xe khác: (Chức năng các xe này không được rõ nhưng có
thể là xe chở diezen và dầu nhờn)
2. Xe (của đại đội 6) và nhân sự khi ở Lào
(1971)
Khi đại đội 6 vẫn còn phiên hiệu, có các xe sau:
* Tăng số 441: Le, Đại đội trưởng
địa đội 6
* Tăng số 153: May (người về miền
Bắc đẻ nhận xe tăng số 363)
* Tăng số 421: Hà, chính trị viên
đại đội 6
* Tăng số 131: Lai
* Tăng số 239: Đức
* Tăng số 238: Lưu
* Tăng số 59: Không rõ
* Ghi chú: Các xe tăng này đã được
chuyển giao cho đại đội 20. Số tăng hiện tại là toàn T54 và T59, được đánh số bắt
đầu bằng số 3
3. Cán bộ
a). Đại đội trưởng: LT? Nguyễn
Văn Lê
b). Đại đội phó thứ nhất: LT Bùi
Xuân Võ
c). Đại đội phó thứ 2: LT Không
Kim Đô
d). CHính trị viên: ASP Trần Xuân
Hà
e). Trợ lý chính trị: ASP Trần
Phái
f). Hậu cần: Sr SGt Nguyễn Văn
Đài (Nhiên liệu)
g). Sỹ quan quan mô tơ (máy?):
Sgt Nguyễn Văn Bảo
h). Y tế: Sr Sgt Lê Tiên Sinh
Bảng danh sách 44 thành viên với lý lịch hòan chỉnh
xem phụ lục 2.
E. Các hoạt động của Trung đoàn 203
1. Năm 1971
a). Theo tài liệu này, trung đoàn
203 tham dự chiến dịch Hạ Lào đầu năm 1971. Tháng 4/1971 (Sau chiến dịch Hạ
Lào), trung đòan được lệnh trở về huyện Quảng Ninh - tỉnh Quảng Bình, nhưng Tiểu
đòan 397 vẫn ở tại hạ Lào, tại Na Lai (Tây Bắc thị trấn Sepon) để tăng gia sản
xuất. Bên cạnh việc sản xuất, tiểu đòan còn huấn luyện kỹ, chiến thuật. Tháng
10/1971, tiểu đòan nghiên cứu nhiệm vụ trong chiến dịch mùa khô năm 1972, mà có
thể sẽ trở lại Bắc VN để hoạt động cùng với các đơn vị quân sự khác. Tiểu đòan
chuẩn bị cho nhiệm vụ mới bằng các hoạt động tăng cường và tái cơ cấu các đơn vị
trực thuộc, và gửi người ra miền Bắc nhận xe tăng mới. Tiểu đoàn đã được trang
bị nhiều vũ khí mới mà các thành viên chưa biết sử dụng và sửa chữa.
2. Đầu năm 1972
a). Đầu năm 1972, một nửa của đại
đội 6, Tiểu đoàn 397 ra miền Bắc (theo tuyến đường Sepon – Cù Nam Quảng Bình)
sau khi chuyển giao xe tăng kiểu cũ cho Tiểu đoàn. Chúng được Trung đoàn 203 tiếp
nhận tại Cù Nam. Không thành viên nào của đơn vị được phép về thăm nhà. Thay
vào đó, họ chuẩn bị cho chuyến hành quân vào miền Nam VN.
3. Trung đoàn 203 hành quân vào miền Nam VN
Theo tài liệu thu được, Trung đoàn xâm nhập Tây Quảng
Trị theo 2 tuyến riêng biệt
a). Tuyến từ Na Lai (Hạ Lào) đến Quảng Trị
* Đặc điểm của tuyến đường
Sau khi nhận được xe tăng từ đại đội 6, đại đội 3
nghiên cứu tình trạng tuyến đường xâm nhập. Đại đội có thể xâm nhập tỉnh Quảng
Trị bằng tuyến đường dài khoảng 80 km dọc đường 9 tới đường 16A. Đường 9 rộng
khoảng 8 -1 01m. Đường 16A là đường mòn và 1 số đoạn đã được dọn sạch cây cối.
Tuyến đường này có 1 số ngầm. Ngầm Ja Khong là ngầm lớn và có nhiều nước. Trên
phần Bản Đông của đường 16A, có 1 số điểm giao cắt và hố bom thường khiến các
đơn vị lạc đường. Máy bay trinh sát thường xuyên hoạt động trên tuyến và ban
đêm máy bay C130 sử dụng thiết bị hồng ngoại để trinh sát; khi phát hiện lực lượng
Bắc Việt, sẽ gọi F4 đến oanh tạc.
* Tuyến đường di chuyển của trung đoàn 203
Theo mệnh lệnh từ Trung đoàn, Tiểu đoàn 397 khởi
hành vào ngày 10/1/1972. Đại đội 3 được tăng cường 1 máy thông tin 15W, 4 cán bộ
trung đội, 2 cán bộ tiểu đoàn và 2 trợ lý. Khởi hành từ Na Lai đến Sepon qua Bản
Đông và theo tuyến 16A tiến đến Km 96 và dừng lại để chờ nhận nhiệm vụ mới.
* Đội hình hành quân
Tất cả các đại đội di chuyển thành hàng với khoảng
cách giữa 2 xe tăng từ 30 -40 m, và giữa 2 trung đội từ 100 – 150m. Tốc độ hành
quân khoảng 4 -5 km/h. Hai xe tăng đi đầu được các cán bộ chỉ dẫn 1 giờ 1 lần.
Các xe tăng được che chắn và ánh sáng phía đuôi cũng được che kỹ. Sau khi các
xe đến đích, toàn bộ dấu vết xích nhanh chóng được xóa.
* Xử lý tình huống
Trong quá trình di chuyển, nếu có pháo sáng, các
xe phải dừng lại ở phía đường có cây che chắn để tránh bị phát hiện. Nếu đội
hình xe bị ném bom, các lái xe phải tắt ánh sáng và chạy hết tốc lực đến bụi
cây để ẩn nấp. Máy thông tin trên xe phải luôn giữ chế độ nhận thông tin.
Nếu xe bị đổ, không được phép di chuyển tiếp cho đến
khi thợ sửa chữa đến.
* Chuẩn bị lương thực
Mỗi xe tăng phải mang đủ lương thực dự trữ trong 2
tháng hoặc hơn. Những người bị thương nhẹ sẽ ở trong xe và tự băng bó. Các trường
hợp bị thương nặng sẽ được chuyển đến trạm cứu chữa gần nhất.
* Khu vực tập kết hợp nhất với Trung đoàn
Sau khi đến Adua, Tiểu đoàn 397 chờ các bộ phận từ
Bắc VN đến để hợp nhất . Các đơn vị khởi hành từ căn cứ Na Lai khu vực tỉnh Quảng
Trị, qua Na Lai, Sepon, và khu vực Bản Đông, đường 16A và Lang Sen, sau đó đến
khu vực Adua Ap, chờ trung đoàn từ Bắc VN đến để hợp nhất vào ngày 4/3/1972.
b). Các bộ phận chính của trung đoàn khởi
hành từ Quảng Ninh đến Quảng Trị
* Khởi hành từ Quảng Ninh ngày
4/2/1972, theo đường 103 từ Cam Ly đến thượng nguồn sông Bến Hải, qua Cha Ly và
khu vực Ban Achoe. Sau đó theo biên giới Lào - Việt, khu vực Nương trường (Nông
trường?) và Lang Sen, tiến tới Adua Ap, khu vực hợp nhất ngày 4/3/1972
4. Thông tin chi tiết trên hành trình từ
Quảng BÌnh đến Quảng TRị (Từ nhật ký của ASP Trần
Xuân Hà, chính trị viên Đại đội 6, tiểu đoàn 397 Trung đoàn 203)
* 2/2/1972: Nhận lệnh khởi hành
nhưng lại hoãn
* 4/2/1972: Khởi hành đi đến Adua
Ap
* 10/2: Đến Đập Cẩm Ly
* 11/2: Tiếp tục di chuyển
* 27/2: Cán bộ Tiểu đoàn và đại đội
nhận được nhiệm vụ từ Trung đoàn. Trợ lý chính trị (Tùng) phổ biến mệnh lệnh
tác chiến.
* 28/2: Tiếp tục di chuyển và đi
qua khu vực Chà Lỷ đến km số 2 đường 18.
* 29/2: Đi qua khu vực Mường
Truông đến Km số 72 đường 10 và đèo với màn sương mù; “Một bên là dốc đứng của
núi, bên kia là vực thẳm”.
* 1/3: Dừng lại để tiếp dầu nhờn.
Cán bộ gặp gỡ và phổ biến hành trình.
* 2/3: Tiếp tục di chuyển vào ban
đêm và đến “đường Pháo cụt” khu vực Lang Sen vào buổi sáng. ĐỘi hình hành quân
bị không kích (1 xe tăng bị cháy tại Tây khu vực Làng Côi)
* 3/3: Tiếp tục hành quân đến cuối
đường dẫn đến khu vực Mai Sóc. Sau khi xóa dấu vết xích, tiếp tục băng qua Ngã
3 Cha Ky.
* 4/3: ĐI đến điểm hợp nhất tại
khu vực Adua Ap.
* 5/3: Dừng chân. CHuẩn bị che chắn
và ngụy trang xe.
* 6/3: Trinh sát tuyến đường. Tiếp
tục ngụy trang.
* Từ 7 đến 9/3: Sẵn sàng chiến đấu,
dỡ niêm cất súng trên xe tăng, kiểm tra động cơ xe, lau bộ lọc và kiểm tra dầu,
mỡ, nước và hệ thống điện của súng. Nghiên cứu nhiệm vụ sắp tới.
* Từ 10 – 14/3: Nghiên cứu kinh
nghiệm di chuyển (Từ Bắc Vn đến Adua Ap)
* 15/3: Sửa chữa 2 ngầm dẫn đến
khu vực Góc MÍt. Cắt cây thành các đoạn 1,2m và đặt trên vệt bánh xích di chuyển.
* 17/3: Tổ chức họp để phổ biến
nhiệm vụ sắp tới.
* 20/3: Nghiên cứu các bài học
chính trị và tuyên truyền năm 1971, chính sách thương binh tử sỹ, tù binh…
* 22/3: Đại đội 2 đào hào và xây
dựng chỗ ẩn nấp
* 23/3: Chỉ huy E, D cùng gặp gỡ
để thảo luận tình hình.
* Tiểu đoàn phổ biến phiên hiệu
Trung đoàn phiên hiệu là Bắc Sơn. Tiểu đoàn 397 gọi
là Vạn Tường và Đại đội gọi là H. Khu vực ẩn nấp được gọi là “Nguồn Rắn” thay
cho “Làng Cọp”
* 24/3: Đặt các thanh gỗ tạo đường
đi từ khu vực C1 đến khu vực Cây Mít qua khu vực C2. Đến 28/3/1972, phải đặt
xong đến khu vực Bùi Mít.
* Từ 25 đến 27/3: Tiếp tục đặt
các cây gỗ tại đường đi và che chắn khu vực giấu quân. Triển khai hệ thống bếp
Hoàng Cầm, ôn luyện các bài kỹ - chiến thuật, nhận lực lượng tăng cường [Hết nhật ký]
b). Hành trình từ Tây Khe Sanh đến khu vực
Quảng Trị
* 6/3: Tiếp tục di chuyển từ Km
86 đường 16A, trạm chắn 07 đến khu vực Làng Cọp qua đường mòn từ làng Adua đến
Mai SÓc
* 8/3: Cho người đến khu vực Nguồn
Rào để nhận C5 (của Tiểu đoàn 512)
* 9/3: Cử người liên lạc với khu
vực Làng Hồ và Làng Suất
* 14/3: 1 trung đội của đại đội 1
, tiểu đòan 397 đến ngầm trên khu vực Gốc Mít
* Có 4 xe tăng trục trặc: Xe số
334 bị thủng thùng dầu, xe số 385 bị trục trặc súng 12,7mm; Lò xo súng 12,7mm
xe tăng số 340 bị hỏng; Tháp pháo xe 383 bị hỏng không quay được.
* Sáng 15/3: Kiểm tra dầu mỡ. Báo
cáo thiếu 5.500 lít dầu.
* 16/3: Dừng chân và phổ biến
kinh nghiệm trong quá trình di chuyển.
* 17/3: Họp liên tịch Hội đồng
quân nhân
* 18/3: Nghiên cứu nhiệm vụ sắp tới
(Cán bộ chỉ được phổ biến 1 phần nhiệm vụ)
* [Sổ ghi chép của Xuan Hà kết thúc tại ngày
6/4/1972?]
5. Nghiên cứu kế hoạch tác chiến khi vào
chiến trường của Trung đoàn 203
a). Mục tiêu
* Trung đoàn đã tấn công Kim Yến,
Ái Tử, căn cứ 241, Đầu Mầu và Phượng Hoàng
b). Lực lượng
* Một trung đoàn của Sư đoàn 304B
“đến từ phía Tây”(là trung doàn 24 sư đoàn 304B) tham gia với Tiẻu đoàn 397
* Tiểu đoàn 512: Không xác định
được
c). Kế hoạch hành quân
* Đại đội 1 (của D397) sẽ tấn
công Kim Vân, và chiếm giữ cầu Quảng Trị sau đó tấn công căn cứ Ái Tử
* Lực lượng tấn công căn cứ Phượng
Hoàng: Đại đội 1, được 1 trung đội cao xạ hỗ trợ đã tấn công căn cứ Phượng
Hoàng. Sau khi phá hủy căn cứ này, các đơn vị này sẽ chuyển sang tấn công căn cứ
Ái Tử
* Lực lượng tấn công căn cứ Ái Tử:
Đại đội 2 đã tấn công căn cứ Ái Tử và sau đó rút về khu vực Nại Cửu để phòng ngự.
6. Chỉ dẫn chiến đấu
a). Mã Morse và pháo hiệu: Bảng
b). Tín hiệu cho xe tăng
Tín hiệu phải được đặt trên xe suốt cả ngày và
đêm. Ban ngày kéo cờ đỏ trên tháp pháo. Ban đêm dùng các dải tín hiệu trắng
quanh tháp hoặc 2 bên tháp pháo hoặc tại chỗ dễ nhìn.
c). Phối hợp giữa bộ binh và xe tăng: Phụ lục
4
d). Phối hợp với bảo đảm an ninh
Giải mã chính xác các tài liệu mã hóa. Điện thoại,
điện tín và điện đài phải được vận hành đúng quy định.
Tránh việc mất mát, thất lạc tài liệu mật...
e). Dự trữ lương thực khi chiến đấu
* Gạo 21kg/ tháng
* Thịt muối: Cấp phát đầy đủ
* Lương khô: Cấp phát đầy đủ (4 hộp
cho mỗi xe)
* Đường và sữa đặc: Cấp phát đầy
đủ
* Quân phục: Mỗi thành viên phải
mang 2 bộ quần áo cotton dày.
* Quân y: Cấp phát đầy đủ
F. Nội dung bài giảng quân chính do E203
thực hiện
1. Nghiên cứu chặng đường tiến quân từ Khe Sanh đến Quảng Trị
a). Đặc điểm địa hình khu vực hành quân...
b). Thuận lợi và khó khăn...
2. Chuẩn bị hành quân
3. Nghiên cứu kế hoạch chiến đấu trong quá trình di chuyển
a). Chống quân SG đổ bộ đường không: Sử dụng súng máy 12,7mm, súng bộ binh tấn công ngay khi
trực thăng hạ cánh, sử dụng xe tăng yểm trợ nếu quân SG có số lượng lớn.
b). Chuẩn bị chiến đấu
4. Nghiên cứu nhiệm vụ của E203 trong giai
đoạn tổng tấn công 1972
Các bài huấn luyện “không giống các năm trước, năm
nay trung đoàn sẽ tiến hành tấn công phói hợp với các đơn vị chủ lực khác”. Nhiệm
vụ chính là dẫn đàu lực lượng bộ binh tiêu diệt hạ tầng chiến tranh của SG và
phá vỡ hệ thống phòng thủ tại mặt trận B5 và làm đảo lộn các tuyến phòng ngự
khác của SG. Đặc điểm của chiến dịch tấn công là phối hợp chặt chẽ với các đơn
vị khác nên việc tấn công phải tiến hành cả ngày và đêm trên cả khu vực núi và
vùng trũng.
5. Nghiên cứu nhiệm vụ của Đại đội 1, Tiểu
đoàn 397 trong chiến dịch “phối hợp tấn công”
Đại đội 1 là lực lượng thọc sâu của bộ phận thiết
giáp sẽ được mở trong chiến dịch tổng tấn công năm 1972 để phá vỡ phòng tuyến
thứ nhất của SG trong khu vực biên giới. Tài liệu đọc: “Đại đội 1 ra sức hỗ trợ
và được tin tưởng của Bộ Tư lệnh Tăng thiết giáp, Trung ương Đảng, Đảng ủy Bộ
tư lệnh tăng thiết giáp”...
6. Nghiên cứu các tài liệu tuyên truyền
năm 1971 của E203
7. Nghiên cứu của Tiểu đoàn 397 trong cuộc tấn công căn cứ
pháo binh tại Làng Bản Tín (Lào) do Sư đoàn 312 tiến hành dưới sự hỗ trợ của
các đơn vị trợ chíen ngày 19/12/1971
a). Đặc điểm địa hình…
b). Lực lượng đóng tại Bản Tín…
c). Lực lượng QĐ ND VN tham gia tấn công
* Các đơn vị của Trung đoàn 141
và 1 đại đội thiết giáp, 1 đại đội cối, 1 đại đội 12,7mm, 1 đại đội cao xạ, 1 đại
đội rocket, 1 đại đội pháo 130mm
* Các bộ phận của Trung đoàn 209,
165 và Tiểu đoàn 605.
* Đại đội 18 thiết giáp (Xe tăng
PT76)
d). Kế hoạch tấn công
* Trung đoàn 141 141 và lực lượng
tăng cường có xe tăng trên hướng chính tấn công Tiểu đoàn 603 hoàng gia Thái
Lan.
* Tiểu đòan bộ binh 27, được tăng
cừơng 1 tiểu đoàn bộ binh và 3 xe tăng tham gia tấn công đợt 2.
* Tiểu đoàn 3 bộ binh, tăng cường
1 đại đội, có nhiệm vụ bao vây
* Đại đội 18 thiết giáp có trách
nhiệm tấn công Phú Tuân. Bố trí đội hình như sau:
Trung đội 1: 2 xe tăng PT76 và 1 xe T34
Trung đội 2: 4 xe tăng T34và tiểu đoàn bộ
binh 2
Trung đội 3: Dự bị 2 xe tăng T34
Trung đội 4: 3 tăng T34, 1 tăng PT76 và bộ binh có
nhiệm vụ tấn công mỏm 1, mỏm 5.
Máy ủi sẽ đi giữa đội hình và lực lượng công binh
sẽ đi giữa dẫn đường.
e). Tài liệu đã cho thấy đại đội có kế hoạch
tấn công vào 5/12/1971 nhưng sau đó có lệnh hõan đến 19/12/1971.
Lúc 8h00 ngày 19/12/1971, xe tăng di chuyển đến Bắc
Na Na. Sau khi có lệnh tấn công, chỉ có 4 xe tăng tham gia. 1 giờ sau, toàn bộ
xe tăng đã đến. Tất cả xe tăng đều bật đèn trước và chạy hết tốc lực tiến vào mục
tiêu.
Lúc 22h30, bộ binh và xe tăng bắt đầu tấn công. Xe
tăng số 451 và 2 PT76 của trung đội 1, dẫn đầu tiến công mục tiêu.
Lúc 22h40, trung đội 3, gồm 2 tăng T34 (1 mang số
424) phối hợp với tiểu đòan 27, tấn công làng Ban Quay.
8. Học tập Kế hoạch tấn công tiểu đoàn 21
lực lượng đặc biệt Vàng Peo và Tiểu đoàn 608 pháo binh Thái Lan tại đồi Nam Phu
Keng
a). Địa hình...
b). Lực lượng Hoàng gia Lào tại Phu Keng...
c). Phối hợp và nhiệm vụ của các đơn vị QDND VN
* Trung đoàn 335 là lực lượng
chính
* Trung đoàn 174, được tăng cường
1 đại đội cối, tiêu diệt tiểu đoàn 21 đặc biệt Mẹo
* Đại đội 9 thiết giáp của tiểu
đoàn 3 và Đại đội 18 thiết giáp sử dụng 8 tăng K2 (Có thể là PT76) và 3 xe K63
(máy ủi) hỗ trợ bộ binh tấn công Na Hinh và Phay Khanh.
G. Các thông tin khác
1. Thiệt hại của Đại đội 1 tại Làng Coi (Gần Làng Sen)
Lúc 5h00 ngày 2/3/1972, đại đội trúng B52, gây ra
hư hại cho 3 xe tăng:
* Xe tăng số 383, lái xe Đức,
trúng vào pháo, không quay được
* Xe số 385, lái xe Thanh, bị
cháy, Thanh bị bỏng toàn thân
* Xe số 334, lái xe Lưu, bị thủng
thùng dầu.
H. Nhận xét của SG
* E203 không tham gia hoạt động
trên chiến trường giới tuyến trong những ngày đầu của chiến dịch (30/3 – 6/4)
Trận chiến đấu đầu tiên của E203 diễn ra ngày 9/4/1972 tại căn cứ Phượng Hoàng,
nơi thu được tài liệu. Nó chúng minh tăng số 340 và 2 xe T54 khác đã bị bắt và
triển lãm cho dân chúng xem là của Đại đội thiết giáp 1, Tiểu đoàn 397, bao gồm
xe do Phùng Văn Thanh lái.
Đăng nhận xét