Thứ Năm, 9 tháng 9, 2021

[7.33.1] Tàu không số/ Đường Hồ Chí Minh trên biển Đông - Những con tàu huyền thoại (2) - Phần 2: Sự kiện hải quân Mỹ chặn đánh tàu không số 100 của Lữ đoàn 125 hải quân nhân dân Việt Nam ngày 10/5/1966 tại cửa sông Rạch Già (Cà Mau) ngày 9 và 10/5/1966

2021090968054 - Phần 2


2. Tóm tắt thông tin của phía Mỹ

Đêm 9/5/1966, tàu Point Grey bắt đầu các chuyến tuần tra như thường lệ ở khu vực biển phía Đông bán đảo Cà Mau. Khoảng 22 giờ, khi tuần tra ở khu vực cách bờ biển khoảng 4 hải lý, tàu Point Grey quan sát thấy có đống lửa lớn trên bãi biển. Sau khi tiếp cận bờ biển, tàu phát hiện có 2 đống lửa lớn ở khu vực Bắc lối vào cửa sông Rạch Già. Nhận thấy sự bất thường từ sự xuất hiện của 2 đống lửa, tàu Point Grey quyết định duy trì giám sát khu vực này suốt đêm.

Lúc 0 giờ 10 phút ngày 10/5/1966, radar của tàu Point Grey phát hiện một tàu vỏ sắt, đang tiến vào ở góc 260 độ với tốc độ khoảng 10 hải lý/ giờ. Tàu Point Grey tiếp cận tàu lạ và đến 1 giờ 20 tàu Point Grey đánh tín hiệu liên lạc, tuy nhiên không có tín hiệu trả lời. Tàu Point Grey tiếp tục tiến gần đến khoảng cách 400 mét và sử dụng đèn pha để tìm kiếm, phát hiện ra tàu lạ là 1 tàu đánh cá. Tàu Point Grey lập tức liên lạc về Trung tâm giám sát hàng hải tại An Thới, báo cáo có 1 tàu cá vỏ sắt thay đổi tốc độ và hành trình di chuyển hướng Tây Bắc. Tàu Point Grey tiếp tục đi theo sát tàu cá.

Lúc 2 giờ, tàu cá vỏ sắt đi đến khu vực xuất hiện các đống lửa trên bờ biển. Lúc 3 giờ 15, phát hiện tàu cá đang trôi dạt trên biển. Tàu Point Grey bắn pháo sáng chiếu sáng khu vực, tiếp cận sát tàu cá, cách tàu cá 100 mét và gọi sang tàu cá. Không có trả lời từ phía tàu cá. Nhìn thấy thoáng qua có ba hoặc bốn người trên tàu cá, tuy nhiên những người này cố gắng tránh lộ diện.

Lúc 5 giờ, tàu cá ở vị trí cách bờ biển khoảng 1km, và bắt đầu trôi vào khu vực nước nông (?).

Khi trời sáng, phát hiện tàu cá bị mắc cạn cách bờ khoảng 400 mét. Lúc 7 giờ, tàu Point Grey tiếp cận và cố gắng lên bong tàu cá. Sự nghi ngờ về tàu cá càng gia tăng, khi tàu Point Grey bị bắn dữ dội từ bờ biển. Tàu Point Grey bắn trả lại và quay ra vị trí cách bờ biển khoảng 1,5 km để chờ tiếp viện.

Các tàu Brister và Vireo đang trên đường đến khu vực. Sở chỉ huy cũng ra lệnh cho tàu Point Cypress đến khu vực và đề nghị lực lượng hải quân VNCH cử lực lượng đến khu vực. Hải quân VNCH cử đến khu vực 5 tàu tuần tra và 1 tàu chỉ huy LSIL 328 và tàu PGM 614. Tàu Brisyter đến khu vực lúc 11 giờ 45, nhưng do mực nước thấp nên tàu chỉ đến được vị trí cách bờ biển khoảng 7,5 km.

Thủy triều và điều kiện sóng biển đã tiếp tục cản trở việc tiếp cận lên boong tàu cá, đồng thời làm tàu cá trôi dạt thêm khoảng 100m vào gần bờ, gần khu vực bao phủ bởi rừng ngập mặn dày đặc.


Lúc 13 giờ 50, không quân yểm trợ đã đến khu vực. Được không quân yểm trợ, tàu Point Grey lại tiến về phía tàu cá. Khi tiến đến cách bờ khoảng 200 m, tàu Point Grey bị hỏa lực súng bộ binh bắn chính xác từ khu vực rừng ngập mặn ra, làm ba thủy thủ tàu Point Grey trên mũi tàu bị thương [Tàu Point Grey biên chế 8 thủy thủ và sỹ quan]. Tàu Point Grey ngay lập tức lùii về vị trí cách bờ khoảng 400m, sau đó quay ra khu vực nước sâu hơn. Ba thủ thủ bị thương được chuyển sang tàu Brister để cứu chữa.

Các đơn vị tiếp tục bắn phá khu vực trong suốt buổi chiều để ngăn chặn các lực lượng Bắc Việt tiếp cận con tàu. Một số phát đạn đã bắn trúng tàu cá và gây nên một vài đám cháy và nổ nhỏ.

Lúc 17 giờ, sóng và thủy triều đã đẩy dịch con tàu vào gần bờ hơn, lúc này chỉ còn cách bờ gần 50 mét, và có khả năng tàu sẽ chìm trước khi trời tối. Khi đó, các lực lượng Bắc Việt sẽ cố gắng tiếp cận con tàu và vận chuyển hàng hóa từ con tàu vào bờ trong màn đêm dày đặc. Quyết định được đưa ra là phá hủy con tàu. Mệnh lệnh phá hủy con tàu được thông qua lúc 17 giờ 26, và bắt đầu lúc 17 giờ 50. Các đơn vị bắn pháo và máy bay ném bom oanh tạc con tàu, gây nên những đám cháy và nổ đến tận 20 giờ 30, khi một tiếng nổ lớn bẻ con tàu thành 2 phần và chìm trong lửa. Quá trình bắn phá ngừng lại, và thay vào đó là bắn pháo sáng chiếu sáng khu vực cho đến hết đêm.

Đầu giờ sáng 10/5/1966, 3 tàu Hải quân VNCH, và 5 tàu/ thuyền nhỏ cùng đến khu vực. Con tàu vận tải bị gãy đôi và khó vận chuyển về cảng. Khu vực lúc này yên tĩnh, và các lực lượng VNCH tiến hành thiết lập các điểm phòng thủ bảo vệ hiện trường. Với sự trợ giúp của các đơn vị Mỹ và VNCH, tàu LSIL 328 [Giang Pháo Hạm 328 Thần Tiễn (LSIL - Landing Ship Infantry Light)] bắt đầu tiến hành chiến dịch trục vớt tàu vận tải Bắc Việt. Chỉ huy tàu LSIL 328 được giao làm chỉ huy trưởng chiến dịch trục vớt. Ngoài ra, lực lượng đặc nhiệm hải quân Mỹ và thợ lặn hải quân VNCH cũng đến hiện trường tham gia trục vớt. Công việc trục vớt được tiến hành thuận lợi vào ban ngày, ban đêm tàu và máy bay liên tục thả pháo sáng suốt đêm để bảo vệ khu vực.

Lúc 15 giờ ngày 12/5/1966, chiến dịch trục vớt bị dừng lại do lực lượng Bắc Việt tấn công, làm cho lực lượng bảo vệ trên bờ phải rút lui ra biển. Máy bay được gọi đến và tiếng súng tạm im. Lúc 16 giờ 10, chỉ huy hải quân VNCH đến hiện trường và chỉ huy trực tiếp chiến dịch trục vớt, được tiếp tục lúc 18 giờ.


Chiến dịch trục vớt kết thúc lúc 10 giờ 15 ngày 13/5/1966 và các đơn vị bảo vệ rút khỏi hiện trường. Tất cả vũ khí đạn dược trục vớt được đưa lên tàu LSIL 328 chở về Sài Gòn. Tàu Brister sử dụng pháo bắn vào xác tàu vận tải Bắc Việt để phá hủy hoàn toàn xác tàu, sau đó tiếp tục thực hiện các chuyến tuần tra vào lúc 19 giờ.

Tấm bảng hiệu do thợ lặn gỡ ra từ máy tàu cho thấy được sản xuất tại Đông Đức năm 1964. Một số bảng hiệu khác cho thấy xuất xứ từ Pháp và Trung Quốc. Đặc biệt, phát hiện đạn cối 120mm được sản xuất tại Trung Quốc năm 1965. Đây là lần thứ 2 đạn dược kiểu này được phát hiện ở Nam Việt Nam, và lần đầu tiên xuất hiện tại đồng bằng sông Cửu Long.

Các loại vũ khí, đạn dược, trang bị trục vớt được từ con tàu vận tải Bắc Việt

Vũ khí

  • 1 súng 12,7mm
  • 3 súng máy Sô viết loại SG 43
  • 1 súng DKZ 57mm
  • 1 súng máy kiểu MG34



Đạn dược: Thu được khoảng 15 tấn

  • Đạn súng cối 120mm
  • Đạn súng 12,7mm
  • Đạn cối 82mm
  • Đạn cối 81mm (Sản xuất tại Mỹ trong thế chiến II)
  • Đạn DKZ 75mm
  • Đạn cối 60mm
  • Đạn DKZ 57mm
  • Thuốc nổ TNT
  • Ngòi nổ


Các trang bị khác

  • Máy chiếu phim
  • Âm ly
  • Loa
  • Máy ghi nhạc
  • Phim truyện
  • Vật tư để phục vụ công tác tuyên truyền

3. Không ảnh chụp tàu không số 100 bị phá hủy thành 2 phần, sát bờ biển ngày 10/5/1966 (gần cửa sông Rạch Già - Cà Mau). Tàu nhỏ hơn bên trái hình là tàu của quân Sài Gòn trục vớt vũ khí từ tàu số 100



Hình ảnh tàu lúc mắc cạn và chưa bị phá hủy



[7.33] Tàu không số/ Đường Hồ Chí Minh trên biển Đông - Những con tàu huyền thoại (2): Sự kiện hải quân Mỹ chặn đánh tàu không số 100 của Lữ đoàn 125 hải quân nhân dân Việt Nam ngày 10/5/1966 tại cửa sông Rạch Già (Cà Mau) ngày 9 và 10/5/1966

2021090968054


1. Thông tin phía Việt Nam

Sau khi tàu 69 vào bến, một ngày sau, đêm 23 rạng 24 tháng 4 năm 1966, tàu 100 được lệnh rời bến Bính Đông. Tàu 100 do thuyền trưởng Lê Minh Sơn và chính trị viên Nguyễn Hữu Tương chỉ huy. Thuyền phó là Ngô Văn Sở và Phạm Ngọc Điển; các thủy thủ gồm: Nguyễn Thành Thưởng, Lê Văn Cớt, Đàm Văn Chung, Phùng Văn Quý, Trần Văn Đua, Đặng Thanh Bàn, Lê Xuân Giản, Đoàn Văn Minh, Lê Văn Thi, Lê Văn Tưởng, Cao Văn Thiện, Lê Công Khanh.

Đi được một ngày, theo lệnh của Sở chỉ huy, tàu dửng lại ở A3. Ngày 5 tháng 5, tàu tiếp tục lên đường. Sáu ngày đầu, tàu đi trong sự yên tĩnh. Ngày thứ 7, khi tàu ở vào toạ độ 09o55 vĩ bắc, 109o30 kinh đông thì gặp một tàu khu trục Mỹ. Vừa phát hiện tàu lạ, chiếc khu trục tăng tốc độ, bám sát. Cuộc "hộ tống” kéo dài nhiều giờ. Tàu 100 mấy lần định “cắt đuôi” nhưng không được. Đêm 9 rạng 10 tháng 5, tàu quyết định chuyển hướng vào bờ. Máy bay trinh sát của địch phát hiện được, lập tức chúng báo động và điều tàu chiến đấu. Sau đó một thời gian, chiếc tàu chiến của hải quân Mỹ mang tên Uscg Cuher Poiut Grey đã có mặt. Chúng đánh tín hiệu xin cập mạn. Tàu ta vẫn không đáp. Tàu Mỹ chạy nhanh về phía trước, có ý chặn đường, nhưng tàu 100 vẫn tiến thẳng, sẵn sàng đâm vào tàu địch. Thấy vậy, tàu Mỹ phải tránh sang một bên. Song tàu Cuher Poiut Grey vẫn bám sát tàu ta, với ý định đe doạ, buộc tàu 100 phải đầu hàng. Tàu 100 không nổ súng trước, mà tranh thủ đi nhanh về phía bờ. Lúc này, thấy ám hiệu: hai đống lửa ở cửa Bồ Đề, nên tàu đã đi vào cửa Rạch Già. Đêm đó nước ròng, tàu vào tới Rạch Già thì bị mắc cạn

Ngoài khơi, địch điều thêm 3 tàu chiến nữa với ý định cướp tàu ta. Trước tình hình đó, chi ủy, cán bộ tàu 100 quyết định cho anh em lên bờ, bắt liên lạc với bến. Trước khi rời tàu, đồng chí Phạm Ngọc Điển thuyền phó và đồng chí Lê Văn Cớt thợ máy ở lại điểm hoả để phá tàu và phá vũ khí. Song không rõ nguyên cớ gì, tàu 100 không nổ. Tàu của địch không dám vào gần tàu ta, nó ở xa 200 mét đánh tín hiệu xin cập mạn. Nó tưởng trên tàu 100 vẫn còn người.

Tàu địch kéo còi mấy lần, không thấy tàu ta đáp lại chúng cho hai tên liều mạng bơi về phía tàu 100 thăm dò. Nhưng lúc đó, lực lượng ở bến do đồng chí Tư Mao chỉ huy đã ra kịp thời, bắn xả vào mấy tên địch, buộc chúng quay lại.

Lúc ấy trời đã gần sáng. Khả năng giữ được tàu, không cho địch kéo đi rất khó. Đồng chí Tư Mao cùng với thợ máy Cớt và Hải, một du kích của bến, bơi ra tàu thu thập tài liệu liên quan đến chuyến đi và bí mật của đơn vị.

Suốt ngày hôm đó, các thủy thủ tàu 100 phối hợp với lực lượng ở bến chiến đấu kiên cường, quyết không cho địch vào gần cướp tàu.

Khoảng gần trưa, thêm hai tàu nữa của địch đến. Chúng dàn đội hình quây lấy tàu 100, đồng thời xả đạn vào bờ. Song vẫn bị chống trả quyết liệt nên ý định cướp tàu không thành. Máy bay trực thăng, máy bay phản lực đến dội bom, bắn phá khu vực, với mục đích không cho ta bám tàu. Sau mỗi đợt bắn phá, tàu địch lại vào, anh em ta đánh rát, chúng lại dạt ra. Mãi đến 10 giờ sáng ngày hôm sau, biết không bắt sống được tàu ta, bọn địch ném bom xuống tàu. Thuốc nổ của bom, thuốc nổ trên tàu và vũ khí chứa trong nó, khiến con tàu bùng lên dữ dội và mất dạng. Như vậy là ý định bắt sống cán bộ chiến sĩ và cướp tàu ta của kẻ địch không thực hiện được. Đã vậy, địch bị nhiều tổn thất. "Trời vừa mờ sáng, tàu Poăng-gơ-rây đã đến cách mục tiêu 500 mét, dự định đổ bộ lên tàu địch (tức tàu 100), nhưng đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của hoả lực tử các bụi rậm trên bờ bắn xuống. Tàu Poăng-gơ-rây đã cố giữ vững vị trí và anh dũng chống trả với tất cả hoả lực... Cuộc chống trả dai dẳng và gay go này đã làm cho tàu Poăng-gơ-rây bị nhiều thiệt hại, ba pháo thủ tiền vệ bị thương, vỏ tàu bị nhiều vết đạn xuyên phá...". Đó là lời thú nhận của kẻ địch trong một tài liệu sau này Đoàn 125 thu được.

Thứ Hai, 6 tháng 9, 2021

[7.37] Không ảnh (33): Ảnh đoàn xe ô tô vận tải trên 1 đoạn ngã ba đường mòn Hồ Chí Minh

2021090644018


Ảnh đoàn xe ô tô vận tải trên 1 đoạn ngã ba đường mòn Hồ Chí Minh. Các xe vận tải không chở hàng. Đáng chú ý là trong ảnh có 1 người lái xe đứng bên cạnh xe ô tô.

Ảnh do máy bay trinh sát phản lực chuyên dụng Mỹ chụp, có lẽ ở thời điểm ngừng bắn?




[7.36] Không ảnh (32): Khoảnh khắc 1 xe ô tô vận tải của Quân đội nhân dân Việt Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh bị ném bom

2021090644017

Khoảnh khắc 1 xe ô tô vận tải của Quân đội nhân dân Việt Nam (Mũi tên đỏ) trên đường mòn Hồ Chí Minh bị ném bom. Quả bom có lẽ nổ phía trước chiếc xe, tung bụi mù mịt và gây đám cháy phía trước mũi xe. Chỗ đốm lửa cháy sáng có lẽ là 1 ô tô tải bị cháy do trúng bom.




Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021

[6.35] Không ảnh (31): Hình ảnh khu vực thành cổ Quảng Trị - Quốc lộ 1A - đường sắt bắc nam, năm 1953

20210904


Hình ảnh khu vực thành cổ Quảng Trị - Quốc lộ 1A - đường sắt bắc nam, năm 1953





Thứ Tư, 1 tháng 9, 2021

[4.43] Thư đề ngày 20/5/1971, do đồng chí Hoàng Tín, thay mặt Đảng ủy và Thủ trưởng Trung đoàn pháo binh 74 (Trung đoàn 724), gửi toàn thể cán bộ chiến sỹ về việc giải thể Trung đoàn 724 pháo binh Miền

2021090128384


Thư đề ngày 20/5/1971, do đồng chí Hoàng Tín, thay mặt Đảng ủy và Thủ trưởng Trung đoàn pháo binh 74 (Trung đoàn 724), gửi toàn thể cán bộ chiến sỹ về việc giải thể Trung đoàn 724 pháo binh Miền.


Theo đó, Trung đoàn 724 pháo binh giải thể, biên chế thành 2 đơn vị là tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2, lần lươt trực thuộc Phân khu Thủ Biên và Phân khu Bà Rịa - Quân khu 7. Tiểu đoàn 3 giải thể, điều Đại đội 7 về thuộc Tiểu đoàn 1, Đại đội 8 và 9 về thuộc Tiểu đoàn 2.


Ảnh chụp bức thư






Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021

[6.34] Không ảnh (30): Hình ảnh khu vực Quốc lộ 1A và đường sắt Yên Viên - Lạng Sơn vượt sông Đuống, năm 1967

 20210828

Hình ảnh khu vực Quốc lộ 1A và đường sắt Yên Viên - Lạng Sơn vượt sông Đuống, năm 1967: Có 3 tuyến vượt sông Đuống, gồm cầu đường sắt - đường bộ đi chung, 1 cầu đường sắt phía hạ lưu và 1 đường nhánh để vượt sông bằng cầu phao/ phà (Dự phòng trường hợp cầu sắt bị không quân Mỹ đánh sập)





Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2021

[3.218] Giấy đăng ký kết hôn giữa đồng chí Bùi Văn Thêm và vợ là Nguyễn Thị Khước, đăng ký ngày 28/3/1966 tại UBND xã Hiệp Thuận huyện Quốc Oai - tỉnh Hà Tây (Nay là xã Hiệp Thuận huyện Phúc Thọ - Hà Nội)

 2021081541396


Bản chính Giấy đăng ký kết hôn giữa đồng chí Bùi Văn Thêm, 29 tuổi, bộ đội thuộc đơn vị 1311 và vợ là Nguyễn Thị Khước, 19 tuổi, làm ruộng, ở tại xóm 1 Yên Dịu xã Hiệp Thuận, đăng ký ngày 28/3/1966 tại UBND xã Hiệp Thuận huyện Quốc Oai - tỉnh Hà Tây, có chữ ký đc Đỗ Hữu Quế.


Ngoài ra còn có 1 số giấy tờ đề 6/7/1968 của đc Bùi Văn Thêm.


Ảnh chụp Giấy đăng ký kết hôn:





Trong CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ VỀ LIỆT SĨ, MỘ LIỆT SĨ VÀ NGHĨA TRANG LIỆT SĨ có thông tin như sau:

LS Bùi Văn Thêm * Hy sinh: 1966 * Nghĩa trang: NTLS xã Hiệp Thuận * Thành phố Hà Nội * Huyện Phúc Thọ * Xã Hiệp Thuận * Lô mộ 1

Không có thông tin chi tiết về ngôi mộ này, cũng như ảnh bia mộ!




Thứ Hai, 9 tháng 8, 2021

[3.217] Giấy chứng minh và Quyết định đề bạt cấp bậc Thượng sỹ của đc Đặng Văn Đài đơn vị Trung đoàn 273 Sư đoàn 9

2021080935389

Các giấy tờ của đc Đặng Văn Đài, đơn vị Trung đoàn 273 Sư đoàn 9, gồm:

1. Giấy chứng minh cấp cho đc Đặng Văn Đài đơn vị Đ 247 được đi đến Hải Yến (Đi S9).

2. Quyết định đề ngày 14/12/1966 của Tham mưu trưởng Đoàn 250 Quân khu Việt Bắc (Đơn vị huấn luyện quân đội) thăng cấp quân hàm từ hạ sỹ lên cấp thượng sỹ cho đc Đặng Văn Đài.


Ảnh chụp các giấy tờ




Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2021

[5.273] Giấy tờ thu từ thi thể bộ đội Việt Nam (51): Giấy chứng minh Đoàn chi viện của Liệt sỹ Nguyễn Hồng Hải quê Lê Chân - Hải Phòng, Giấy chứng minh và Sơ yếu lý lịch của LS Nguyễn Văn Tảo quê Câu Trung - Quang Hưng - An Lão - Hải Phòng, đơn vị Trung đoàn 273 Sư đoàn 9

2021080834387

Các giấy tờ quân Mỹ thu giữ từ thi thể bộ đội Việt Nam hy sinh sau trận đánh gồm:

1. Giấy chứng minh Đoàn chi viện của Liệt sỹ Nguyễn Hồng Hải quê Lê Chân - Hải Phòng, đơn vị Trung đoàn 273 Sư đoàn 9..

2. Giấy chứng minh và Sơ yếu lý lịch của LS Nguyễn Văn Tảo quê Câu Trung - Quang Hưng - An Lão - Hải Phòng, đơn vị Trung đoàn 273 Sư đoàn 9.


Ảnh chụp các giấy tờ:




Web Chính sách quân đội có thông tin về 2 Liệt sỹ như sau (LS Tảo có họ khác, là họ Phạm, thông tin quê quán đơn vị ngày  hy sinh là đúng):


Họ và tên:Phạm Văn Tảo
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh:
Nguyên quán:Quang Hưng, An Lão,
Trú quán:, ,
Nhập ngũ:7/1967
Tái ngũ:
Đi B:
Đơn vị khi hi sinh:, e3/f9
Cấp bậc:H1 - AP
Chức vụ:
Ngày hi sinh:18/8/1968
Trường hợp hi sinh:
Nơi hi sinh:
Nơi an táng ban đầu:,


Họ và tên:Nguyễn Hồng Hải
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh:
Nguyên quán:, Lê Châu,
Trú quán:, ,
Nhập ngũ:4/1966
Tái ngũ:
Đi B:
Đơn vị khi hi sinh:, e3/f9
Cấp bậc:B1 - AT
Chức vụ:
Ngày hi sinh:18/8/1968
Trường hợp hi sinh:
Nơi hi sinh:
Nơi an táng ban đầu:,
Toạ độ:
Vị trí:
Nơi an táng hiện nay:

[5.272] Giấy tờ thu từ thi thể bộ đội Việt Nam (50): Quyết định đề bạt Tiểu đội phó và Quyết định kết nạp Đảng của Liệt sỹ Nguyễn Văn Phan, quê Dục Tú - Đông Anh - Hà Nội, đơn vị Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 271 Sư đoàn 9 Quân Giải phóng Miền

2021080834386


Quyết định đề bạt Tiểu đội phó và Quyết định kết nạp Đảng của Liệt sỹ Nguyễn Văn Phan, quê Dục Tú - Đông Anh - Hà Nội, đơn vị Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 271 Sư đoàn 9 Quân Giải phóng Miền.

Các giấy tờ này quân Mỹ thu giữ từ thi thể bộ đội Việt Nam hy sinh sau trận đánh.


Ảnh chụp các Giấy tờ:




Web chính sách quân đội có thông tin về Liệt sỹ Nguyễn Văn Phan như sau:


Họ và tên:Nguyễn Văn Phan
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh:1947
Nguyên quán:Tứ Dục, Đông Anh,
Trú quán:, ,
Nhập ngũ:1/1966
Tái ngũ:
Đi B:
Đơn vị khi hi sinh:, 1, f9
Cấp bậc:B1 - CS
Chức vụ:
Ngày hi sinh:12/4/1968
Trường hợp hi sinh:Trảng Tranh
Nơi hi sinh:
Nơi an táng ban đầu:,
Toạ độ:
Vị trí:
Nơi an táng hiện nay:

Thứ Bảy, 31 tháng 7, 2021

[3.216] Sổ ghi chép, Quyết định về công tác cán bộ, Giấy khen của đc Lãnh Hồng Long tức Nguyễn Nam Long, đơn vị Phòng Giao - Bưu - Vận thuộc Cục Tham mưu Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam

2021073156407


Các giấy tờ của đồng chí Lãnh Hồng Long, tức Nguyễn Nam Long, cán bộ thuộc Phòng Giao - Bưu - Vận của Miền, gồm

1. Quyết định đề ngày 1/8/1967 của Sở Bưu Điện TRuyền thanh Hà Nội về việc cử ô Chu Văn Ba là Phó phòng Bưu Điện Ba Đình tạm thay ông Lãnh Hồng Long đi công tác đột xuất. [Có thể đc Lãnh Hồng Long vào công tác tại Phòng Giao bưu Miền]

2. Giấy chứng nhận đề ngày 31/12/1968 chứng nhận đc Lãnh Hồng Long đơn vị A1 J14 đã được tăng danh hiệu Dũng sỹ Quyết thắng cấp 3. Một Giấy chứng nhận khen thưởng năm 1969 ghi tên là đc Nguyễn Nam Long.

3. Giấy giới thiệu, đề 30/3/1970 gửi các đơn vị Đoàn 49 giới thiệu đc Lãnh Hồng Long thuộc Phòng Giao bưu miền Nam đến liên hệ công tác. Một giấy giới thiệu khác đề ngày 1/11/1969 ghi tên là đc Nguyễn Nam Long.

4. Hai ảnh cá nhân, phía Mỹ chú thích có thể là đc Long.


Ảnh chụp các giấy tờ





Thứ Tư, 28 tháng 7, 2021

[5.271] Thẻ quân trang, thương phiếu của cán bộ chiến sỹ thuộc Tỉnh đội Bình Định

 2021072853403


Các giấy tờ của cán bộ, chiến sỹ thuộc tỉnh đội Bình Định bị thu giữ tháng 4/1970 gồm


1. Giấy tờ của đc Phan Văn Lợi

- Giấy chứng minh của đc Phan Văn Lợi.

- Thẻ quân trang đề ngày 23/5/1967 của đc Phan văn Lợi, thiếu úy binh chủng phòng không, nhập ngũ tháng 2/1961. Dòng đầu tiên ghi thời gian cấp phát là 11/1967. Đến 31/5/1968 thì có thông tin chuyển đi đơn vị mới, chữ ký và con dấu của Chủ nhiệm hậu cần Trung đoàn 584.

- Quyết định của Đơn vị 160, tức Tỉnh đội Bình Định, đề 27/3/1970, do Thủ trưởng đơn vị Lê Thành Dũng tức Lê Thành Văn  - Tỉnh đội trưởng ký,  điều động đc Phan Văn Lợi, cấp bậc 3/1 đang công tác tại Nhân Sơn về giữ chức Trợ lý thanh niên của Tỉnh đội.

2. Đồng chí Trần Văn Dũng

- Bệnh án đề ngày 6/4/1970 của đc Trần Văn Dũng 19 tuổi, - cần vụ đơn vị T30 , bị thương 3/4/1970. Đc Dũng quê Quế Hoài Châu - Hoài Nhơn - Bình Định

Ảnh chụp các giấy tờ






Thứ Năm, 22 tháng 7, 2021

[5.270.1] Giấy chứng nhận học lực lớp 9 của Liệt sỹ Vũ Văn Vối, quê Xuân Thượng - Xuân Trường - Nam Định, đơn vị Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66

 2021072247396


Giấy chứng nhận học lực đề ngày 22/3/1967 do Trường Phổ thông cấp 3 Xuân Trường cấp, xác nhận bác Vũ Văn Vối sinh ngày 3/1/1949 tại xã Xuân Thượng huyện Xuân Trường tỉnh Nam Hà đã học hết chương trình lớp 9 của Trường, niên khóa 1966-1967.

Giấy chứng nhận này quân Mỹ thu giữ tại Kontum năm 1968.

Ảnh chụp Giấy chứng nhận:



Trong web Cơ sở dữ liệu mộ LS có thông tin về LS Vũ Văn Vối ở NTLS quê nhà.

Trong Web Chính sách quân đội có thông tin về Liệt sỹ Vũ Văn Vối như sau:


Họ và tên:Vũ Văn Vôi
Tên khác:
Giới tính:
Năm sinh:1950
Nguyên quán:Xuân Thượng, Xuân Trường, Nam Hà
Trú quán:Xuân Thượng, Xuân Trường, Nam Hà
Nhập ngũ:03/1967
Tái ngũ:
Đi B:09/1967
Đơn vị khi hi sinh:c8 d8 E66
Cấp bậc:Binh nhất
Chức vụ:chiến sỹ
Ngày hi sinh:19/01/1968
Trường hợp hi sinh:chiến đấu
Nơi hi sinh:Chư tan
Nơi an táng ban đầu:mất xác

[5.270] Quyết định gọi nhập ngũ của Liệt sỹ Nguyễn Bá Mãi, quê Vạn Điểm - Thường Tín - Hà Tây, đơn vị Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66

 2021072247396


Quyết định của Ủy ban Hành chính huyện Thường Tín đề ngày 27/11/1966 gọi nhập ngũ đc Nguyễn Bá Mãi, sinh 1946 con ông Nguyễn Bá Đại sinh trú quán tại Vạn Điểm - Minh Phú - Thường Tín - Hà Tây, đúng 7 giờ ngày 5/12/1966 có mặt tại trạm tập trung để cán bộ xã đưa lên.

Giấy tờ này quân Mỹ thu giữ năm 1968 ở Kontum. Kiểm tra cùng các thông tin khác thì đơn vị LS Mãi là Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 66.

Ảnh chụp Quyết định gọi nhập ngũ:




Cổng thông tin về mộ Liệt sỹ có thông tin về Liệt sỹ Nguyễn Bá Mãi như sau:


Thứ Tư, 21 tháng 7, 2021

[5.269] Ảnh chụp 4 bia mộ Liệt sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam, hy sinh khoảng năm 1968, bị quân Mỹ phát hiện tháng 4/1969 tại khu vực nam sông Bến Hải, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị

 2021072146043


Tháng 4 năm 1969, một số đơn vị quân Mỹ đã tiến quân lên khu vực phía nam khu phi quân sự (DMZ) - nam sông Bến Hải để tấn công các đơn vị bộ đội thuộc Mặt trận B5 Quân khu Trị Thiên.

Trong quá trình hành quân, 1 toán trinh sát tuần tra của quân đội Mỹ đã phát hiện 7 ngôi mộ chôn cất bộ đội Việt Nam, hy sinh khoảng năm 1968, trong đó 4 ngôi mộ có bia mộ ghi thông tin Liệt sỹ. Một người lính Mỹ trong toán tuần tra đã chụp ảnh 4 bia mộ này.

- Thông tin đọc được từ 1 bia mộ là Liệt sỹ Nông Văn Lâm/ Lắm [Ảnh chụp không đươc rõ], đơn vị Đại đội 9 Binh trạm 43, quê xã Bạch Thượng huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Thái.

- 3 bia mộ còn lại chữ khó đọc, 1 có thể là Liệt sỹ Lê Văn Cát, không đọc rõ các thông tin liên quan (quê quán, đơn vị, ngày hy sinh).

- Khu vực quân Mỹ phát hiện bia mộ/ khu mộ (Có tọa độ) nay thuộc địa bàn huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Thông tin này cũng đã được chuyển tới đơn vị quy tập tỉnh Quảng trị.

Cám ơn CCB Mỹ Mike Sullivan về thông tin!

Ảnh chụp các bia mộ





Thứ Sáu, 9 tháng 7, 2021

[5.268] Giấy tờ của Liệt sỹ Đặng Tuyết Lương, quê xã Sơn Đà huyện Bất Bạt/ Ba Vì - Hà Tây

2021070934382


Giấy tờ quân Mỹ thu giữ của Liệt sỹ Đặng Tuyết Lương, quê xã Sơn Đà huyện Bất Bạt tỉnh Hà Tây, gồm:

1. Giấy chứng minh, cấp cho đc Đặng Tuyết Lương đơn vị J1 Z14 Đoàn 20/7 (Mỹ chú thích là C1/d14/F320) được đi đến Lâm trường 10-12.

2. Giấy chứng minh quân nhân dự bị, đề 22/1/1966, do đc Trần Mạnh Quý ký, cấp cho đc Đặng Tuyết Lương, chiến sỹ thông tin E19, sinh 5/1937 tại Sơn Đà - Bất Bạt - Sơn Tây.


Ảnh chụp các giấy tờ:






Website thongtinlietsy.gov.vn có thông tin về Liệt sỹ Đặng Tuyết Lương như sau:


Thứ Hai, 5 tháng 7, 2021

[6.33] Không ảnh (29): Hình ảnh khu vực diễn ra trận quân Sài Gòn tấn công bộ đội Trung đoàn 207 Quân Giải phóng miền Nam ngày 3/10/1973 tại rạch Đá Biên, tỉnh Long An ngày nay

20210705


Không ảnh tháng 11/1972 chụp khu vực diễn ra trận quân Sài Gòn tấn công bộ đội Trung đoàn 207 Quân Giải phóng miền Nam ngày 3/10/1973 tại rạch Đá Biên, tỉnh Long An ngày nay.




Thông tin trận đánh tại đây: http://www.kyvatkhangchien.com/2014/08/73-mieu-bac-bo-noi-ghi-dau-bi-hung-cua.html

Thứ Ba, 29 tháng 6, 2021

[5.267] Giấy tờ quân Mỹ thu của Bác sỹ - Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm (50): Thư cá nhân của người mẹ bác sỹ tên là bà Doãn Ngọc Trâm gửi bác sỹ Đặng Thùy Trâm, bệnh xá Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi, khoảng tháng 6/1970

 2021062852399

Các Giấy tờ quân Mỹ thu giữ của Bác sỹ - Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm vào ngày 23/6/1970 ở vùng rừng núi thuộc quận Ba Tơ, giáp ranh với huyện Đức Phổ - tỉnh Quảng Ngãi (Có tọa độ thu giữ), gồm:

- Vỏ phong bì thư thứ nhất của người mẹ Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm có đề "Người gửi: Doãn Ngọc Trâm - Đại học Dược Khoa Hà Nội, Gửi con BS Đặng Thùy Trâm - Bệnh xá Đức Phổ - Kính nhờ Ban dân y tỉnh Quảng Ngãi chuyển. Xin trân trọng cảm ơn. Yêu cầu: Không gấp thư có ảnh - Bệnh xá Đức Phổ"

- Vỏ phong bì thư thứ 2 có đề: "Thân - Bộ môn Dược Chính - Bảo quản - Trường ĐHDK Hà Nội, Thương gửi: BS Đặng Thùy Trâm Bệnh xá Đức Phổ Quảng Ngãi". Bên cạnh đó có 1 con dấu tròn đề 4.6.70

- Một bức thư công tác, đề ngày 2.6.70, tiêu đề thư: "Thân gửi em Thùy Trâm".

Ngoài ra còn có 1 Quyết định của UBND cách mạng huyện Đức Phổ tuyển dụng chị Đinh Thị Năm đến nhận công tác tại Ban dân y huyện Đức Phổ.


Bổ sung thông tin (2021/06/28.2324h): Ngoài 2 vỏ phong bì thư, giấy tờ này, trong số giấy tờ quân Mỹ thu giữ tôi có thấy cuốn sổ Nhật ký của Bác sỹ liệt sỹ Đặng Thùy Trâm có cùng thông tin thu giữ (thu ngày 23/6/1970), trong khi CCB Mỹ đã trao trả cuốn Nhật ký tới gia đình Bác sỹ Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm nên rất có thể 2 vỏ phong bì này và bức thư công tác cũng đã được trao tới gia đình Liệt sỹ.

Bổ sung thông tin (2021/06/29.2031h): Hình ảnh các Giấy tờ này đã được chuyển tới  gia đình Bác sỹ - Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm.


Web Wikipedia có thông tin về hoàn cảnh hy sinh của Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm như sau:
"Ngày 22 tháng 6 năm 1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, Đặng Thùy Trâm bị địch phục kích và hy sinh khi chưa đầy 28 tuổi đời, 2 tuổi Đảng và 3 năm tuổi nghề."

Ảnh chụp 2 vỏ phong bì thư, và 1 phần bức thư công tác gửi tới Bác sỹ Liệt sỹ Đặng Thùy Trâm:




Thứ Bảy, 12 tháng 6, 2021

[5.366] Các giấy tờ của cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 102 Sư đoàn 308 bị quân Mỹ thu giữ sau trận chiến ngày 31/5/1968 ở đông Khe Sanh

 2021061236382

Các giấy tờ của cán bộ chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 7 và 8, Trung đoàn 102 Sư đoàn 308 bị quân Mỹ thu giữ sau trận chiến ngày 31/5/1968 ở đông Khe Sanh, gồm:

1. Giấy chứng nhận của đồng chí Nguyễn Xuân Thịnh, sinh 10/1939, không có thông tin quê quán.

2. Miềng kim loại có đục tên đc Nguyễn Thế Vũ, Sơ yếu lý lịch của đc Nguyễn Thế Vũ, quê Trúc Ổ - Hưng Đạo [Mộ Đạo ngày nay] - Quế Võ - Hà Bắc.

3. Giấy chứng nhận của đc Ngô Ngọc Thư, sinh 22/5/1941, không có thông tin quê quán.

4. Giấy chứng nhận của đc Bùi văn An, sinh 27/12/1948, không có thông tin quê quán.

5. Giấy chứng nhận của đc Nguyễn Văn Hải, sinh 10/10/1942, không có thông tin quê quán.

6. Biên lai chuyển tiền, người gửi là Lê Văn Dũng, người nhận là Vũ Thị Đạo - địa chỉ Hạ Hòa - Phú Thọ.

7. Sổ ghi chép cá nhân của đc Khoát, không có thông tin quê quán.

8. Quyết định chuyển Đảng chính thức của đc Nguyễn Văn Cạnh, quê Đình Tổ - Thuận Thành - Hà Bắc, đơn vị tiểu đoàn 7 Trung đoàn 102..

9. Quyết định chuyển Đảng chính thức của đc Trần Đình Hiến, đơn vị tiểu đoàn 7 Trung đoàn 102. Không có thông tin quê quán.

10. Bốn (4) thẻ tên của các đc: (1) Đỗ Văn Soạn, (2) Nguyễn Văn Luận, (3) Nguyễn Văn Ba, (4) Đinh Văn Hòa. Không có thông tin quê quán của các đc này.

11. Bệnh án của đc Nguyễn văn Ích/ Nguyễn Hồng Ích, sinh 8/1/1939, quê Song Liễu - Thuận Thành - Hà Bắc.

Các Giấy tờ này do quân Mỹ thu giữ ngày 31/5/1968, trong đó có một số từ các thi thể bộ đội Việt Nam, tại khu vực nam QL9, đông thị trấn Khe Sanh, tỉnh Quảng Trị, sau trận chiến dữ dội từ 10h sáng đến gần 16h chiều, làm hàng chục bộ đội Việt Nam hy sinh.

Ảnh chụp các Giấy tờ:








[1.6] Quy định số hiệu hòm thư các đơn vị thuộc Tỉnh đội Phước Long, năm 1969

 2021061236381


Bản quy định của Tỉnh đội Phước Long (Mật danh là Tỉnh đội Sông Thao), gửi tới các đơn vị trực thuộc thông báo quy định về số hiệu hòm thư đơn vị, cơ quan trong Tỉnh đội.

Số hiệu hòm thư thống nhất là 86456YK, chỉ có thay đổi phần đầu với mỗi cơ quan đơn vị cụ thể.

- Ban chỉ huy Tỉnh đội: F10-86456YK.

- Ban Tham mưu Tỉnh đội: F1-86456YK.

....

Ảnh chụp bản thông báo