Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017

[5.57] Địa danh (8): Đèo bản Long trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh/đường 559 Trường Sơn - Trung đoàn 209 trên tuyến chi viện, ngày 28/2/1968

20171104

Theo website Chinhsachquandoi.gov.vn thì ngày 28/2/1968, có 7 chiến sỹ thuộc Trung đoàn 209 (E209 mũ sắt) trên đường hành quân đã hy sinh do bị máy bay Mỹ oanh tạc tại đèo Bản Long (Hạ Lào).

Rà soát các thông tin, Rongxanh thấy có 1 khu vực có các thông tin liên quan phù hợp nhất với dữ liệu ở trên. Vị trí đèo bản Long trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh/ đường 559 Trường Sơn trên bản đồ như sau:







Danh sách có tên và quê quán các chiến sỹ E209 hy sinh

STT Họ tên Năm sinh Quê quán Ngày hi sinh Nơi hi sinh Nơi an táng Đơn vị Trường hợp hy sinh
1 Nguyễn Văn Biển 1943 Nam Hưng, Tiền Hải, Thái Bình 28/02/1968 Cây số 18 đèo Bản Long Hạ, Lào E209 Bị bom
2 Đào Chinh Chấn 1935 Tiêu Công, Tiến Châu, Vĩnh Phú 28/02/1968 Binh Trạm 5, Mộ số 7 c17/e209
3 Tạ Văn Cúc 1943 Yên Tâm, Yên Đồng, Yên Lạc, Vĩnh Phú 28/02/1968 Binh Trạm 5 - Binh Trạm 5, Mộ số 8 Km 18 đèo Bản Long ( hạ Lào) c20/e209 Hành quân bị máy bay bắn
5 Nguyễn Văn Hồng 1942 Thường Lệ, Đại Thịnh, Yên Lãng, Vĩnh Phú 28/02/1968 Cây số 18 đèo Bản Long Hạ Lào c17/e209 Máy bay oanh tạc khi đi hành quân
6 Doãn Công Khai 1943 Hồng Châu, Yên Lạc, Vĩnh Phú 28/02/1968 Km 18 đèo Bản Long ( hạ Lào) c20/e209 Hành quân bị oanh tạc
7 Bùi Trọng Khóa 1936 Đức Hòa, Thanh Tâm, Thanh Liêm, Nam Hà 28/02/1968 km 18 đèo bản Long, Hạ Lào E209 Bị oanh tạc

Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017

[5.56] Danh sách 41 Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 320 hy sinh tại ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, ngày 4/4/1966 (Nguồn từ Chinhsachquandoi.gov.vn)

20171103


Tìm kiếm trên website Chinhsachquandoi.gov.vn, Rongxanh thấy có 41 Liệt sỹ thuộc Trung đoàn 320 hy sinh ngày 4/4/1966, do bị ném bom, và đều có nơi an táng là ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu, tỉnh Daklak.

Tại link này
[5.55] Địa danh: Ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 320, ngày 4/4/1966 Rongxanh thấy có 1 khu vực phù hợp nhất với các thông tin ở trên, là ngã ba sông Ya Lốp và Ya Hleo/ còn có tên khác là Nam Lieou, là ranh giới giữa tỉnh Daklak và Pleiku.

Tại link 
[3.7] Một số giấy tờ của bác Trần Văn Nhu - Tiểu đoàn 635 - Trung đoàn 32 - Sư đoàn 1 Mặt trận B3 Tây Nguyên, quê ở xã Trực Tuấn - huyện Trực Ninh – tỉnh Nam Hà
có ghi chép (Có thể là của đ/c Nhu) cho thấy đ/c Nhu bị thương ngày 4/4/1966 trong một trận ném bom. Đơn vị đ/c Nhu đã bị ném bom từ lúc 7h30 đến 17h30 ngày 4/4/1966 bên bờ sông Gia Mơ [Ia Mơ??? là nhánh chảy vào sông Ya Lốp], khi đơn vị hành quân từ Đắc Lắc về Gia Lai. Đ/c Như được điều trị tại Bệnh viện V2 từ 12/4 đến 3/9/1966 và tham gia huấn luyện ngày 13/9/1966.

[Cập nhật 11/11/2017]
Nguyên nhân dẫn đến trận ném bom khốc liệt này như sau:





Danh sách 41 liệt sỹ, có tên, quê quán:

STT Họ tên Năm sinh Quê quán Đơn vị Ngày hi sinh Trường hợp hi sinh: Nơi hi sinh Nơi an táng
1 Hoàng Văn Ảnh 1944 Thạch Lỗi, Cẩm Giàng, Hải Hưng c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc
2 Hồ Xuân Biên 1945 Xuân Hòa, Hòa Vang, Quảng Nam c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
3 Phạm Huy Các 1939 Hiền Vân, Tiên Sơn, Hà Bắc c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 sông Gia Bốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
4 Nguyễn Cảnh Châu 1947 Thanh Dương, Thanh Chương, Nghệ An c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắc Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu
5 Bùi Văn Chức 1945 Thanh Yên, Thanh Chương, Nghệ An c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắc Ngã 3 Sông Gia Lốc, Gia Liêu
6 Hoàng Ngọc Cư 1939 Nghi Thiết, Nghi Lộc, Nghệ An c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã Ba Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc ,
7 Mai Bằng Cử 1943 Trà Trung, Hải Nam, Hải Hậu, Nam Hà c20 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Gia Liêu Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu
8 Đoàn Văn Dần 1943 Quảng hòa, Quảng Trạch, Quảng Bình c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia liêu Đắk Lắk Ngã ba Gia Lốc Gia Liêu Đắk Lắk
9 Nguyễn Văn Đính 1944 Đại Yên, Bạch Đằng, Kinh Môn, Hải Hưng c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắk Ngã ba Gia Lốc, Gia Liêu
10 Ngô Văn Doanh 1937 Quang Trung, Hoài Đức, Hà Tây c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
11 Nguyễn Xuân Đức 1944 Anh Dũng, Tiên Lữ, Hải Hưng c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
12 Nguyễn Văn Đúng 1943 Minh Khai, Tiên Lữ, Hải Hưng c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
13 Nguyễn Văn Được 1942 Gia Sơn, Thái Sơn, Yên Dũng, Hà Bắc c20 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia lốc, Gia Lai, Đắc Lắc Tại ngã 3 sông
14 Nguyễn Thế Hậu 1943 Yên Phú, Trịnh Tiến, Yên Mỹ, Hải Hưng c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc
15 Lê Văn Hồng 1944 Nghi Công, Nghi Lộc, Nghệ An c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu Đắc lắc
16 Phí Xuân Hồng 1946 Đức Thượng, Hoài Đức, Hà Tây c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
17 Nguyễn Tiến Lưu Yên Đức, Đề Thám, Thanh Thuỷ, Vĩnh Phú c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
18 Phạm Văn Luyến 1944 Kim Đính, Kim Thành, Hải Hưng c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
19 Trần Doanh Mai 1935 Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
20 Lưu Hiến Nghị 1943 Hoằng Hợp, Hoằng Hóa, Thanh Hóa c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Biên Gia Biên, Đắc Lắc
21 Nguyễn Văn Ngọ 1942 78D Lý Thường Kiệt, Hà Nội c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
22 Nguyễn Văn Ngọc 1943 57A, ngõ Văn Hương, Hàng Bột, Hà Nội c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
23 Nguyễn Bá Ngọc 1942 Yên Sở, Hoài Đức, Hà Tây c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắc Lắc Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
24 Lê Văn Nguyên 1945 50 đường 158, khu Hai Bà, Hà Nội c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
25 Nguyễn Quang Nhận 1944 Thanh Tài, Thanh Chương, (Thanh Chi), Nghệ An c1 d5 e320 04/04/1966 Máy bay oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đăk Lắc
26 Trần Duy Phiêu 1948 Đức Thượng, Hoài Đức, Hà Tây c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
27 Dương Văn Quý 1943 Phùng Thượng, Phúc Thọ, Hà Tây c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
28 Nguyễn Viết Sinh 1937 Quang Trung, Hoài Đức, Hà Tây c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
29 Trần Đình Tại 1943 Hưng Thịnh, Bình Giang, Hải Hưng c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắk Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc
30 Trần Ngọc Tâm 1945 Xóm 7, Xuân Bắc, Xuân Trường, Nam Hà c20 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngõ 3 sông Gia Lôi Ngã ba sông Gia Lôi, Gia Liêu Đắc Lắc
31 Nguyễn Văn Tẩm 1946 Duy Tân, Kinh Môn, Hải Hưng c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắk Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc
32 Nguyễn Văn Thích 1943 Hoàng Liệt, Thanh Trì, Hà Nội c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Liêu, Gia Lốc, Đắc Lắc
33 Phạm Văn Toán 1943 Minh Khai, Tiên Lữ, Hải Hưng c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Lốc, Gia Liêu Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
34 Nguyễn Văn Tôn 1944 Yên Lệch, Khoái Châu, Hưng Yên c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu
35 Trần Đình Trứ 1944 Thanh Quang, Nam Sách, Hải Hưng c3 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắk Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc
36 Nguyễn Ngọc Trung 1945 Hồng Lạc, Thanh Hà, Hải Hưng c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắk Lắk Ngã ba sông Gia Liêu, Gia Lốc
37 Nguyễn Văn Trường 1939 Tân Lĩnh, Tùng Thiện, Hà Tây c1 d5 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông Gia Liêu, Đắc Lắc Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
38 Vũ Trọng Tường 1943 Minh Tân, Thủy Nguyên, Hải Phòng c1 d5e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Sông gia liêu Ngã 3, Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
39 Bùi Đức Vẽ 1941 Xuân Điểu, Hưng Đạo, Tiên Lữ, Hải Hưng c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã ba sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắk Lắk
40 Nguyễn Trọng Vĩ 1944 Thanh Cát, Thanh chương, Nghệ An c12 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc
41 Nguyễn Văn Viết 1944 Long Xuyên, Phúc Thọ, Hà Tây c6 d6 e320 04/04/1966 Bị oanh tạc Ngã 3 sông Gia Lốc, Gia Liêu, Đắc Lắc


Bản đồ khu vực ngã ba sông:


Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017

[5.55] Địa danh (7): Ngã ba sông Gia Lốc - Gia Liêu tỉnh Daklak, và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 320, ngày 4/4/1966

20171102

Có 1 liệt sỹ thuộc đơn vị Đại đội 6 - Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 320 bị hy sinh ngày 4/4/1966 do oanh tạc. Nơi hy sinh là ngã ba sông Gia Lốc Gia Liêu Daklak.


Tìm trên bản đồ Rongxanh thấy có 1 khu vực phù hợp nhất với các thông tin ở trên, là ngã ba sông Ya Lốp và Ya Hleo/ còn có tên khác là Nam Lieou, là ranh giới giữa tỉnh Daklak và Pleiku. Khu vực này bị ném bom ngày 4/4/1966.




Thứ Hai, 30 tháng 10, 2017

[3.57] Các Giấy khen của Quân khu miền Đông tặng đ/c Nguyễn Minh Sơn, quê quán ở Uyên Hưng - Tân Uyên - tỉnh Phước Thành (tỉnh Bình Dương), về thành tích trong trận đánh sân bay Biên Hòa đêm 10/5/1967 và một số trận đánh khác

2017103058084

- Giấy khen, đề ngày 28/5/1967 do đ/c Nguyễn Hồng Lâm, Phó Chỉ huy trưởng Quân khu miền Đông ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trong trận đánh sân bay Biên Hòa đêm 10/5/1967.

- Giấy khen đề ngày 12/10/1967, do đ/c Dương Tư - Tham mưu phó Quân khu Miền Đông ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trận pháo kích Bến Cát - Thủ Dầu Một đêm 2/9/1967.

- Giấy khen, đề ngày 12/9/1967 do đ/c Bùi Khắc Vũ/ Bùi Cát Vũ tham mưu trưởng Quân khu ký, tặng đ/c Huỳnh Minh Sơn/ hay Nguyễn Minh Sơn, đơn vị thuộc Đại đội 208 Phòng tham mưu Quân khu, về thành tích trong 2 trận đánh sân bay Phú Lợi đêm 28/7/1967 và Bốt Thới Hòa đêm 4/8/1967.

Ảnh chụp các Giấy khen






Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2017

[5.54] Địa danh (6): Khu kho dã chiến L2 của Binh trạm 41 - Binh đoàn Trường Sơn/ Đoàn 559, nam QL9 tại Lào, ngày 17/2/1972

20171022 Địa danh


1. Ngày 17/2/1972, khu vực nam QL9, gần các bản Kadap, Kengnang... hai bên ven sông Sê Pôn, trên đất Lào, bị không quân Mỹ ném bom .

2. Thông tin từ 1 bác cựu chiến binh cùng đơn vị cung cấp cho gia đình Liệt sỹ:
- LS hy sinh tại khu vực kho dã chiến L2 của Binh trạm 41 do bị ném bom B52 rải thảm vào hồi 4h30 sáng 17/2/1972 (Mồng 3 Tết), phá hủy khu kho L2 và 25 xe ô tô của đơn vị vận tải chuẩn bị lấy hàng chạy chuyến hàng đầu Xuân. 

Số lái xe thương vong nhiều nên đơn vị phải nhờ đến lực lượng pháo cao xạ và công binh hỗ trợ giải quyết công tác thương binh - tử sỹ. Các Liệt sỹ được chôn cất tại khu vực bản Mường Chan phía hướng về thị trấn Tà Khống ven QL9 cách độ 300m.

- Đơn vị vận tải hoạt động tại khu kho này thời điểm đó là Đại đội 2 - Tiểu đoàn 54 ô tô vận tải của Binh trạm 41 Đoàn 559 bộ đội Trường Sơn, vận chuyển hàng vào Binh trạm 42, vào khu vực Ashau, A Lưới.

Khu vực trên bản đồ:



Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017

[3.56] Lý lịch xin vào Đảng của họa sỹ Lê Đức Tuấn, trú quán số 3 Hàng Bút Hà Nội, được xác nhận ngày 11/11/1967, đơn vị Trung đoàn 209, do phía Mỹ thu được ngày 25/3/1968 tại nam đỉnh Chưtan Kra 1km

2017102149064

Lý lịch xin vào Đảng của bác Lê Đức Tuấn, sinh ngày 9/9/1942, quê quán tại làng Trạch Xá, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, trú quán số 3 Hàng Bút Hà Nội do phía Mỹ thu được ngày 25/3/1968 tại phía nam đỉnh Chưtan Kra 1km. 

Bác Lê Đức Tuấn là chiến sỹ thuộc Trung đoàn 209, là đơn vị tấn công cao điểm Chư tan Kra (FSB 14) huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, do lính Mỹ thuộc Sư đoàn 4 đóng giữ.

Tìm kiếm trên mạng thì có thêm một số thông tin về bác Lê Đức Tuấn, chủ nhân của Bản lý lịch như sau: Bác Lê Đức Tuấn là họa sỹ, đã sống qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hiện đang sống tại khu tập thể quân đội ở phố Lý Nam Đế. Cùng số kỷ vật của bác bị phía Mỹ thu giữ tại hậu cứ đơn vị ngày 25/3/1968, có cuốn sổ ký họa tranh, năm 2009 đươc phía Mỹ trao trả lại.

Sơ lược một số thông tin trong Lý lịch như sau:

Bác Tuấn công tác tại Công ty mỹ nghệ xuất khẩu từ tháng 8/1963. Ngày 27/3/1967 thì nhập ngũ.
Phần quan hệ bạn bè có ghi tên một số người: Đặng Thế Minh, 24 tuổi, là họa sỹ tại Viện Mỹ thuật Hà Nội; Phạm Vân 24 tuổi, họa sỹ công tác tại Tổng Công ty Mỹ nghệ xuất khẩu 22 Ngô Quyền Hà Nội; Bùi Văn Nga 24 tuổi là họa sỹ công tác tại Xưởng phim hoạt họa.

Bản lý lịch này  khai tại Bắc Thái ngày 26/8/1967, được Chi bộ Công ty Mỹ nghệ phẩm xuât skhẩu Hà Nội xác nhận ngày 15/9/1967; Ban đại biểu khối 8 (Khu dân cư nơi cư trú) xác nhận 16/9/1967; Bí thư Chi bộ 1 Trần Trọng Thủy xác nhận ngày 11/11/1967.

Ảnh chụp các trang Lý lịch






















Chi tiết tại: http://giadinh.net.vn/xa-hoi/ngon-lua-chay-mai-20170727080633135.htm


GiadinhNet - Chiến tranh đã lùi xa hơn 40 năm, nhưng những câu chuyện, những kỷ vật chiến tranh để lại vẫn khiến người ta không khỏi ngạc nhiên vì sự kỳ diệu của nó. Trong đó, có cuốn ký họa, sau này được đánh giá là “nhật ký bằng tranh” của một người “lính mũ sắt” đã lưu lạc hơn 40 năm rồi trở về từ nửa kia Trái đất. Người lính - chủ nhân của cuốn ký họa đó là họa sỹ Lê Đức Tuấn.

Họa sỹ thương binh Lê Đức Tuấn. Ảnh: TG
Họa sỹ thương binh Lê Đức Tuấn. Ảnh: TG
Một con người bình dị
Họa sỹ Lê Đức Tuấn là “hàng xóm” nhà tôi. Ông sống trong khu nhà tập thể cũ trên “phố nhà binh” Lý Nam Đế (Hà Nội). Căn hộ của ông nằm “mãi tít” trên tầng 5 với diện tích khiêm tốn, đồ đạc giản dị nhưng được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. Là họa sỹ nhưng ông không có lấy một không gian làm việc riêng đủ rộng rãi để “thả hồn” vào nghệ thuật…
Trước đây, khi còn nhỏ, tôi chỉ biết đến ông Tuấn là một người hay chăm lo các công việc chung của khu tập thể. Tôi thấy ông hay viết bảng tin để thông báo cho bà con những việc cần làm. Mỗi lần ông viết bảng, trẻ con trong khu lại đứng xem và trầm trồ khen vì ông viết rất đẹp, chữ ông như những nét vẽ mềm mại, sinh động. Dáng người bé nhỏ, nhanh nhẹn, mọi người trong khu luôn thấy ông là một người tốt bụng, vui vẻ, thân thiện. Sau khi chuyển sinh hoạt Đảng về địa phương, tôi mới biết thêm về ông Lê Đức Tuấn trong vai trò là Bí thư Chi bộ Tổ dân phố số 10 (phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm). Sẽ chẳng ai biết nhiều về người chiến binh, người họa sĩ già Lê Đức Tuấn trong chiến tranh đã làm những gì, đã trải qua những chuyện gì. Vì không bao giờ ông kể lể công lao và những đóng góp của mình cho đất nước, ngay cả với con cháu. Cho đến một ngày cuốn ký họa kháng chiến của ông bị thất lạc hơn 40 năm, từ nửa bên kia Trái đất bỗng trở về với ông một cách ly kỳ thì dư luận mới quan tâm nhiều đến chủ nhân của nó - họa sỹ Lê Đức Tuấn.
Sự trở về của cuốn “Nhật ký bằng tranh”
Sự trở về của cuốn ký họa là một câu chuyện ly kỳ mà đến chính bản thân tác giả của nó cũng không thể hình dung được.
Năm 1967, ông Tuấn lên đường nhập ngũ, là chiến sĩ của “lính mũ sắt”, đơn vị đặc biệt của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ra trận, bên cạnh súng trường, ông Tuấn chỉ mang theo bút vẽ, một cuốn sổ tay để ghi chép, ký họa và một tập thơ Puskin. Thay vì viết nhật ký, ông đã diễn tả tâm trạng, tình cảm, tình yêu quê hương đất nước của mình thông qua những bức ký họa. Mỗi làng quê ông đi qua, mỗi gương mặt để lại ấn tượng ông đã gặp, mỗi sinh hoạt của người lính đều hiện lên thật sống động qua màu sắc, nét vẽ của ông. Cuốn ký họa của ông đã có tới 112 bức và được dư luận sau này đánh giá như một cuốn “Nhật ký bằng tranh”. Tháng 3/1968, trong trận tiến công quân địch ở Chư Tan Kra (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum), ông Tuấn buộc phải bỏ lại ba lô cùng cuốn ký họa của mình ở hậu cứ. Sau khi đánh trận trở về, hậu cứ cũng đã bị lính Mỹ càn quét và san phẳng. Tất cả đều bị đốt sạch, không còn một dấu tích gì. Khi biết mình không thể lấy lại cuốn ký họa, trong nhật ký ngày 29/3/1968 của mình, ông Lê Đức Tuấn viết:“Buồn quá, mất hết cả tranh vẽ kể từ ngày bước chân vào bộ đội và mất hết cả những dụng cụ vẽ rồi. Biết làm thế nào? Từ nay mình không được vẽ nữa. Tiếc quá, bao nhiêu hình ảnh sinh động của đời bộ đội mình ghi được đều mất cả. Bao giờ chiến thắng, ta lại về xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Đó là cảm giác tiếc nuối, xót xa rất trong sáng của một người lính trẻ, như vừa mất đi cây súng thứ hai của mình, nhưng vẫn đầy lạc quan.
Khi nhớ về những năm tháng chiến đấu gian khổ, khốc liệt, ánh mắt của họa sỹ Lê Đức Tuấn sáng rực lên, trong từng câu nói, từng cử chỉ, hành động đều như “có lửa”. Người họa sỹ già như đang sống lại thời quá khứ: “Cháu không thể tưởng được đâu. Ở những thời điểm chiến đấu ác liệt nhất, con người có sức mạnh lạ kỳ lắm! Chúng tôi không còn cảm giác sợ sệt, hay nao núng trước tiếng bom dội, tiếng pháo nổ của quân thù. Trong trận đánh, nhiều khi dép không có, chân giẫm phải mảnh bom đạn, tóe máu, bỏng rát mà vẫn chạy “như bay” qua mọi địa hình để tấn công địch. Lúc đó, tâm trí chúng tôi không còn điều gì khác ngoài việc phải “dạy cho kẻ địch biết thế nào là dân tộc Việt Nam anh hùng!”.
Trong trận càn của lính Mỹ vào căn cứ của bộ đội ta năm ấy, cuốn ký họa kháng chiến của họa sỹ Lê Đức Tuấn đã rơi vào tay một quân nhân Mỹ (thiếu tá Robert B.Simpson). Vẻ đẹp tâm hồn của người lính Việt được thể hiện qua từng bức ký họa đã làm người lính Mỹ cảm phục. Ông ta quyết định giữ lại làm kỷ vật thay vì đốt nó như bao thứ khác. Năm đó, Robert B.Simpson xé ba bức tranh trong cuốn ký họa gửi về tặng vợ, 109 bức còn lại ông mang tặng chỉ huy của mình, tướng William R.Peers. Cuốn ký họa sau đó theo tướng R.Peers rời Việt Nam trở về Mỹ. Ông giữ gìn nó cẩn thận đến lúc qua đời năm 1984 mới trao lại cho con gái là bà Penny Peers Hicks với tâm nguyện muốn trả lại cho chủ nhân của nó. Năm 2009, bà Hicks mới có cơ hội trao cuốn ký họa cho Bộ Quốc phòng Mỹ. Cuốn ký họa được gọi là “Nhật ký bằng tranh” đó đã được trao lại cho phía Việt Nam, trở thành một kỷ vật kháng chiến thiêng liêng và được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam cho đến nay.
Ngày thông tin về cuốn ký họa được công bố, dù đã nhận ra tác phẩm của mình nhưng vốn bản tính “rụt rè” và khiêm tốn, ông Tuấn chưa dám nhận ngay vì trong thông tin đưa ra lại cho rằng, đây là cuốn ký họa của một người lính đã hy sinh. Chỉ đến khi mọi thông tin được kiểm chứng, người họa sỹ già mới vỡ òa trong niềm xúc động khi gặp lại “đứa con tinh thần” của mình.

Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017

[3.55] Thư từ và ảnh cá nhân của 1 chiến sỹ Quân đội Nhân dân VIệt nam hy sinh ngày 31/1/1968 Tết Mậu Thân tại đầu tây đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, do phía Mỹ thu được ngày 2/2/1968

2017101745069 Kỷ vật thời chiến

Thư cá nhân dài 4 trang, đề gửi tới người tên Ngọt, không rõ tên và thông tin cá nhân người gửi, người nhận. Kèm theo là 3 bức ảnh chụp chung (Không nhìn rõ được), trong đó phía sau 1 bức ảnh có ghi: Ảnh kỷ niệm ngày 26/12/1967 các bạn thân ở Thủ đô Campuchia.

Theo nội dung bức thư thì có thể đoán người nhận tên là Ngọt, người gửi là một người thân (có thể là hàng xóm) của bác Ngọt. Rất có thể bác Ngọt chính là Liệt sỹ trong trận chiến đấu tại đầu tây sân bay Tân Sơn Nhất ngày 31/1/1968, mà ngày 2/2/1968 phía Mỹ thu được bức thư tại trận địa.[Rongxanh cập nhật, chỉnh sửa 18/10/2017].

Ngoài ra có 1 tấm giấy ghi các tên và số hiệu hòm thư: N.V.Quý, Quyết, Trần V Châu HT 11138 PV A1 (Rongxanh tra cứu thì số hòm thư này có thể thuộc về tiểu đoàn 261A TRung đoàn 1), Tuấn Hiệp 11105 PV H6270. Rongxanh tra cứu thì các hòm thư này thuộc về đơn vị của Phân khu 2.

Bức thư và ảnh do phía Mỹ thu được ở đầu phía Tây đường băng sân bay Tân Sơn NHất ngày 2/2/1968. Nơi đây rạng sáng ngày 31/1/1968 đã diễn ra trận tấn công ác liệt vào đầu tây sân bay, do các Tiểu đoàn 16, 267, 269 Quân đội Nhân dân Việt Nam thực hiện.

Ảnh chụp bức thư, và tấm ảnh:













[5.53.3] Danh sách có tên, thân nhân và quê quán 47 Liệt sỹ thuộc Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 275/ Trung đoàn 5 - Sư đoàn 5, hy sinh ngày từ tháng 9/1966 đến tháng 1/1967

2017101139060



Danh sách 47 cán bộ chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 275/ Trung đoàn 5 - Sư đoàn 5, nằm trong Bảng Danh sách 158 liệt sỹ hy sinh từ 15/12/1965 đến 5/12/1967. Trong đó có 28 liệt sỹ hy sinh ngày 28/6/1966.

Bản danh sách này do phía Mỹ thu được năm 1968, và dịch qua tiếng Anh. Rongxanh dịch lại và đánh máy, nên có thể tên các Liệt sỹ, quê quán... chưa được chính xác khi phiên từ tiếng Anh không dấu sang tiếng Việt có dấu.

Thông tin từ một Cựu chiến binh Úc trao đổi với Rongxanh thì Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 275/ Trung đoàn 5 - Sư đoàn 5, nguyên là Tiểu đoàn 605 thuộc Trung đoàn 250A Bắc Sơn Quân khu 6. Tiểu đoàn 605 ở miền Bắc là Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 32 ở tỉnh Thanh Hóa.

Tên 47 Liệt sỹ (Từ số 107 đến 153) gồm:


107 - Nguyễn Hùng Ngũ, 108 - Nguyễn Trọng Hùng, 109 - Bùi Quang Hạnh, 110 - Trần Ngọc Dễ, 111 - Nguyễn Văn Ninh, 112 - Trần Xuân Trình, 113 - Phạm Xuân Đợi, 114 - Nguyễn Ngọc Lương, 115 - Vũ Xuân Hội, 116 - Hòang Văn Giang, 117 - Nguyễn Ngọc Hùng, 118 - Phạm Ngọc Liên, 119 - Hà Văn Nghị, 120 - Phạm Văn Sách, 121 - Trần Đình Sinh, 122 - Bùi Hữu Duy, 123 - Nguyễn Thiều Ý, 124 - Hồ Ngọc Sáu hay Lâm Sơn Hổ, 125 - Tạ Văn Giao, 126 - Lê Viết Đoạt, 127 - Vi Văn Ngư, 128 - Vũ Trọng Bộ, 129 - Vũ TRọng Tây, 130 - Trịnh Duy Luyện, 131 - Nguyễn Văn Tập, 132 - Vũ Đình Quý, 133 - Phạm Văn Nghỉ, 134 - Vũ Đình Khắc, 135 - Nguyễn Duy Nhiên, 136 - Đinh Trọng Bắc, 137 - Trần Quang Bái, 138 - Trần Văn Quyết, 139 - Bùi Quang Hỷ, 140 - Nguyễn Đình Kinh, 141 - Phạm Đức Kiên, 142 - Bùi Văn Thân, 143 - Phạm Văn Quang, 144 - Trần Văn Huấn, 145 - Đào Văn Minh, 146 - Nguyễn Văn Hương, 147 - Nhữ Sơn Hà, 148 - Phạm Văn Choi, 149 - Lê Xuân Khai, 150 - Hồ Văn Tiết, 151 - Nguyễn Văn Quyên, 152 - Đàm Duy Thanh, 153 - Nguyễn Đăng Trạc


Ảnh chụp các trang danh sách:









Các bài liên quan:


[5.53] Sơ lược thông tin về một số chiến sỹ thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 5 Sư đoàn 5, hy sinh trong trận chiến Long Tân với quân Úc, ngày 18/8/1966 tại Bà Rịa

[5.53.1] Danh sách 41 Liệt sỹ thuộc Tiểu đoàn 3 - Trung đoàn 275/ Trung đoàn 5 - Sư đoàn 5, hy sinh từ 15/12/1965 đến 9/9/1966